Ông A là cá nhân trực tiếp trồng lúa
trên diện tích 100 công tầm lớn (~13 ha). Năng suất đạt 1 tấn/công/vụ. Tổng sản
lượng: 100 tấn/vụ. Giá bán: 7.000 đ/kg. Doanh thu: 700 triệu đồng/vụ.
Ông A có thuê dịch vụ máy bay phun
thuốc, máy gặt đập liên hợp và thuê nhân công thời vụ. Nông sản bán ra là lúa
thô, chưa chế biến, và được một doanh nghiệp thu mua trực tiếp. Doanh nghiệp
thu mua thực hiện lập Bảng kê 01/TNDN.
Tuy nhiên, theo phản ánh tại một số
địa phương, công chức thuế địa phương lập luận rằng:
Ông A có doanh thu lớn nên bị xem là
cá nhân kinh doanh, vượt ngưỡng 100 triệu đồng/năm phải đăng ký thuế, kê khai
và nộp thuế TNCN. Việc ông A thuê máy móc, thiết bị và lao động cho các công
đoạn sản xuất làm mất đi yếu tố “trực tiếp trồng trọt” không còn thuộc diện
được miễn thuế TNCN theo Thông tư 111/2013/TT-BTC và Khoản 1 Điều 5 Luật
Thuế GTGT năm 2024 3. Do đó, giao dịch mua nông sản của doanh nghiệp với ông A
không đủ điều kiện lập bảng kê 01/TNDN mà buộc phải có hóa đơn. III.
Tôi xin trình bày một số lập luận
pháp lý làm cơ sở đề nghị Bộ Tài chính xem xét và có hướng dẫn thống nhất:
1. Về khái niệm “trực tiếp sản xuất”
- Điểm e Khoản 1 Điều 3 Thông tư
111/2013/TT-BTC về thu nhập miễn thuế TNCN, như sau: “Thu nhập của hộ gia
đình, cá nhân trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, làm muối, nuôi trồng, đánh bắt thủy sản chưa qua chế biến hoặc chỉ qua
sơ chế thông thường chưa chế biến thành sản phẩm khác”.
- Khoản 1 Điều 5 Luật Thuế GTGT
năm 2024 quy định về đối tượng không chịu thuế GTGT như sau: “Sản phẩm
cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến
thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của tổ chức, cá nhân
tự sản xuất, đánh bắt bán ra và ở khâu nhập khẩu”.
Các quy định này không đặt ra điều
kiện “phải tự thực hiện toàn bộ các công đoạn” mà chỉ yêu cầu chủ thể là người
tổ chức, sở hữu, và chịu rủi ro sản xuất, tức là “trực tiếp” theo nghĩa điều
hành, không phải lao động thủ công hoàn toàn. Việc thuê dịch vụ máy gặt, phun
thuốc… là biểu hiện của ứng dụng cơ giới hóa, không làm mất bản chất trực tiếp
sản xuất.
2. Về tính chất “kinh doanh” và
ngưỡng doanh thu 100 triệu đồng/năm
- Luật Doanh nghiệp 2020 (Điều 4.21):
“Kinh doanh là hoạt động có tổ chức, thực hiện liên tục nhằm mục đích sinh
lợi.” Thông tư 40/2021/TT-BTC chỉ áp dụng ngưỡng 100 triệu đồng/năm với cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, không áp dụng với cá nhân sản xuất nông nghiệp.
Trường hợp ông A không có hành vi mua
đi bán lại, không phân phối thương mại, không đầu tư nhà xưởng chế biến, và sản
xuất theo mùa vụ truyền thống → không đủ điều kiện để coi là hoạt động kinh
doanh.
3. Về căn cứ thực tiễn và văn bản
ngành thuế
- Công văn 5055/TCT-TNCN ngày
30/11/2015: Xác định rõ thu nhập của cá nhân trực tiếp chăn nuôi, trồng trọt,
chưa qua chế biến là thu nhập được miễn thuế TNCN.
- Công văn 5250/TCT-TNCN ngày
15/11/2017: Khẳng định chỉ những khoản thu nhập có bản chất tiền công, tiền
thuê dịch vụ,… mới thuộc diện phải khấu trừ thuế. IV.
Từ các vướng mắc và phân tích trên,
tôi kính đề nghị Bộ Tài chính xem xét:
- Khẳng định lại điều kiện được xem
là “trực tiếp sản xuất nông nghiệp” trong bối cảnh hiện đại hóa sản xuất (có sử
dụng máy móc, thuê dịch vụ phụ trợ).
- Làm rõ rằng ngưỡng doanh thu 100
triệu đồng/năm không áp dụng đối với cá nhân sản xuất nông nghiệp, dù có doanh
thu lớn, nếu thỏa mãn điều kiện tại Thông tư 111/2013/TT-BTC và Khoản 1 Điều
5 Luật Thuế GTGT năm 2024.
- Hướng dẫn thống nhất việc lập bảng
kê 01/TNDN trong trường hợp doanh nghiệp mua nông sản từ cá nhân trực tiếp
sản xuất nhưng đủ điều kiện miễn thuế TNCN và thuộc đối tượng không chịu
thuế GTGT.
Rất mong Bộ Tài chính xem xét,
hướng dẫn để bảo đảm thống nhất thực thi chính sách, tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân sản xuất nông nghiệp, đồng thời giúp doanh nghiệp an tâm khi thực
hiện nghĩa vụ thuế.