Tái cấu trúc tài chính quốc gia - Bước đi cần thiết để tiếp tục lành mạnh hóa nền tài chính

Tái cấu trúc tài chính quốc gia - Bước đi cần thiết để tiếp tục lành mạnh hóa nền tài chính 20/01/2012 09:56:00 992

Cỡ chữ:A- A+
Tương phản:Giảm Tăng

Tái cấu trúc tài chính quốc gia - Bước đi cần thiết để tiếp tục lành mạnh hóa nền tài chính

20/01/2012 09:56:00

Cần thiết phải tái cấu trúc

Sau 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển nhanh trên nhiều mặt, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được xây dựng và hoàn thiện. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2001 - 2010 đạt 7,26%, GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 1.204 USD, quy mô GDP năm 2010 theo giá thực tế gấp 3,4 lần so với năm 2000, đưa Việt Nam thoát ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đồng thời thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch về mức sống so với các nước trong khu vực.  

Cùng với các thành tựu chung của đất nước, nền tài chính Việt Nam trong thời gian qua đã không ngừng phát triển, góp phần tích cực thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tiềm lực tài chính quốc gia đã được mở rộng và tăng cường ở cả ba cấp độ là tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp và tài chính dân cư. Tuy nhiên, trong giai đoạn vừa qua cũng chỉ ra một số hạn chế trong huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển, việc phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính quốc gia còn thiên về phát triển theo chiều rộng, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp, thị trường vốn phát triển ở mức độ khiêm tốn.

image

Ảnh: TS Vũ Nhữ Thăng phát biểu tại Hội thảo

Bên cạnh đó, cơ chế huy động các nguồn lực của Việt Nam còn có một số điểm nghẽn, như: thị trường tài chính còn tiềm ẩn nhiều khó khăn; thu NSNN còn phụ thuộc vào các khoản thu “không thường xuyên”. Tỷ trọng thu từ dầu thô và đất đai vẫn còn khá lớn trong khi thu từ thuế nhà, đất và thuế thu nhập cá nhân còn thấp. Cơ cấu đầu tư NSNN còn bất hợp lý, phân bổ vốn đầu tư vẫn dàn trải, hiệu quả đầu tư công có xu hướng giảm. Thâm hụt ngân sách vẫn còn cao; nợ công tuy trong giới hạn an toàn nhưng đã tiệm cận ngưỡng. Trong khi đó, Việt Nam đã xác định mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 là: "phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau".

Trước bối cảnh đó, tái cấu trúc nền tài chính quốc gia là yêu cầu cần thiết để nâng cao hiệu quả huy động, sử dụng và phân bổ nguồn lực tài chính. Qua đó, góp phần đảm bảo giữ vững an ninh, ổn định tài chính - tiền tệ, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.

            Trong giai đoạn gần đây, xu hướng cải cách tài chính của các nước nhằm tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng bền vững, đối phó với khủng hoảng kinh tế, giải quyết bài toán nợ công. Đối mặt với mức thâm hụt ngân sách và tỷ lệ nợ công cao, các nước phát triển đã triển khai thực hiện cải cách chi tiêu công trong lĩnh vực y tế, lương hưu hoặc tăng thuế suất và mở rộng đối tượng chịu thuế của một số sắc thuế như GTGT, tiêu thụ đặc biệt để giảm bớt áp lực cho thâm hụt ngân sách; trong khi các nước mới nổi lại thực hiện những điều chỉnh tài khóa chỉ ở mức độ vừa phải để vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khi đầu tư khu vực công của các nước này vẫn đóng vai trò quan trọng, vừa đảm bảo được các vấn đề về an sinh xã hội. Mặc dù, có những cải cách tài khóa riêng ở các nước nhưng cả hai nhóm nước phát triển và những nền kinh tế mới nổi đều thực hiện những biện pháp về cải cách cơ cấu chi tiêu ngân sách để thúc đẩy tăng trưởng và bình đẳng hơn, cũng như tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình tài khóa.

Song song với quá trình điều chỉnh chính sách chi NSNN, xu hướng cải cách hệ thống chính sách thu được nhiều nước áp dụng là duy trì mức thuế suất không quá cao và mở rộng cơ sở thuế tính thuế. Áp dụng chính sách thuế suất thấp, ít số lượng thuế suất sẽ giảm thiểu các tác động bóp méo do thuế mang lại đối với việc phân bổ và sử dụng nguồn lực trong xã hội, cũng như có khả năng giảm các hành vi trốn, tránh thuế. Đồng thời, cơ cấu thu ngân sách ở một số nước đã có sự đánh đổi về vai trò giữa thuế TNCN với thuế TNDN; giữa thuế tiêu dùng chung (thuế GTGT) với thuế TTĐB

5 trụ cột cần cải cách nền tài chính quốc gia

Từ những nhiệm vụ đặt ra về chính sách tài chính để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước giai đoạn 2011 - 2020, cùng với nhu cầu tái cấu trúc nền tài chính, xin đề xuất 5 giải pháp trụ cột chính cần thực hiện để cải cách nền nền tài chính quốc gia, bao gồm:

Một là, giải phóng và huy động hiệu quả nguồn lực tài chính phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tỷ lệ huy động vào NSNN đạt 23 - 24% GDP vào năm 2015, trong đó thuế, phí và lệ phí đạt 22 - 23% GDP. Cơ cấu lại thu NSNN theo hướng giảm dần sự lệ thuộc vào những khoản thu không thường xuyên, có tính ổn định không cao, nâng dần tỷ lệ các khoản thu thường xuyên từ thuế và phí ở mức độ hợp lý. Tăng tỷ trọng thu nội địa phù hợp với từng bước phát triển nền kinh tế để đạt khoảng 70% tổng thu NSNN vào năm 2015.

Mở rộng cơ sở tính thuế, duy trì mức thuế suất hợp lý, đảm bảo công bằng, bình đẳng về thuế giữa các đối tượng nộp thuế; tạo động lực khuyến khích sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, đồng thời bảo hộ hợp lý và có chọn lọc theo mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên quốc gia. Thực hiện đơn giản hóa hệ thống chính sách ưu đãi thuế. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế, chống thất thoát, gian lận thuế.

Hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính khai thác tiềm lực từ đất đai, từ nguồn tài nguyên thiên nhiên để tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển bền vững, hạn chế việc xuất khẩu tài nguyên thô, góp phần bảo vệ, khai thác và sử dụng tài nguyên hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả, cũng như bảo vệ môi trường.

Hai là, phân bổ, sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính cùng với quá trình nâng cao vai trò định hướng của nguồn lực tài chính nhà nước. Cụ thể: tập trung vốn đầu tư nhà nước phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật thiết yếu. Đồng thời, tạo cơ chế, chính sách thu hút các nguồn lực xã hội đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, dịch chuyển dần nguồn lực nhà nước đầu tư cho con người, đầu tư cho khoa học công nghệ và môi trường, giáo dục đào tạo, y tế; đẩy mạnh cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp; phát triển mạng lưới an sinh xã hội; đổi mới cơ chế về đầu tư vốn của Nhà nước và cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp do Nhà nước làm chủ sở hữu.

Xây dựng nguyên tắc, căn cứ lập dự toán chi đầu tư phát triển, bố trí vốn, thanh toán và quyết toán vốn nhằm đảm bảo tập trung vốn đầu tư hoàn thành công trình theo kế hoạch khắc phục cơ bản tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán. Đồng thời, nghiên cứu sửa đổi Luật NSNN, đổi mới các quy định về phân định nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách; nghiên cứu để từng bước xoá bỏ tình trạng lồng ghép của hệ thống NSNN theo nguyên tắc ngân sách cấp nào do cấp đó quyết định.

Ba là, phát triển đồng bộ thị trường tài chính và dịch vụ tài chính để động viên các nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển kinh tế - xã hội. Định hướng cơ bản của tái cơ cấu là hướng tới hình thành và phát triển một thị trường tài chính cân đối hơn (thúc đẩy phát triển thị trường chứng khoán, đặc biệt là thị trường trái phiếu và trái phiếu công ty).

Tái cơ cấu sản phẩm hàng hóa tài chính cũng là một yêu cầu quan trọng với trọng tâm đặt vào việc tăng cường hàng hóa có chất lượng cho TTCK, cho phép và giám sát chặt chẽ các công cụ phái sinh, tiếp tục đa dạng hóa các loại hàng hóa trên thị trường tài chính. Tái cơ cấu nhà đầu tư và các định chế tài chính, khuyến khích, tăng số lượng các nhà đầu tư có tổ chức. Đổi mới các định chế tài chính có liên quan trên thị trường tài chính, thiết lập các tổ chức xếp hạng tín nhiệm. Nghiên cứu khả năng xây dựng Việt Nam thành một trung tâm tài chính trong khu vực ASEAN.

Bốn là, nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát tài chính. Hoạt động giám sát tài chính sẽ ngày càng quan trọng hơn do sự phát triển của thị trường tài chính. Xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa ngày càng mở rộng, đảm bảo sự hoạt động ổn định và phát triển của toàn bộ hệ thống tài chính, chống đỡ với những tác động tiêu cực từ bên ngoài và hạn chế những “khoảng trống quyền lực” là những yêu cầu và thách thức lớn. Do vậy, việc cấu trúc lại hệ thống giám sát tài chính cần phải được nhìn nhận một cách tổng thể trong bối cảnh khuôn khổ thể chế, sự phối hợp giữa các cơ quan, quy mô của các tổ chức tài chính, cũng như sự phát triển của thị trường tài chính và dịch vụ tài chính của Việt Nam trong thời gian tới. Trong thời gian tới, để nâng cao hiệu lực của giám sát tài chính cần: (i) hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về giám sát tài chính ở Việt Nam; (ii) đổi mới kiện toàn mô hình hệ thống giám sát; (iii) củng cố, tăng cường năng lực giám sát của các cơ quan giám sát tài chính.

Năm là,đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực tài chính. Trong đó, cần đơn giản hoá và công khai hoá quy trình, thủ tục hành chính; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực tài chính; cơ bản hoàn thành việc xây dựng cơ sở dữ liệu tài chính quốc gia và xây dựng các cơ sở dữ liệu chuyên ngành; thiết lập hệ thống thông tin quản lý, tăng cường khai thác hiệu quả các hệ thống thông tin và phục vụ công tác chỉ đạo điều hành; hoàn thiện phương thức điều hành chính sách tài chính; nâng cao năng lực tổ chức thực hiện chính sách; đánh giá tác động và dự báo.

TS.Vũ Nhữ Thăng (Trích từ Thông tin tài chính số 20/2011)