Một số vấn đề trong “chính thức hóa” hộ kinh doanh ở Việt Nam

Một số vấn đề trong “chính thức hóa” hộ kinh doanh ở Việt Nam 28/09/2022 14:24:00 6508

Cỡ chữ:A- A+
Tương phản:Giảm Tăng

Một số vấn đề trong “chính thức hóa” hộ kinh doanh ở Việt Nam

28/09/2022 14:24:00

Nguyễn Thị Luyến

Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

 

Chính thức hóa” hộ kinh doanh hay chuyển hộ kinh doanh thành doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật từ năm 1999 nhưng việc triển khai trên thực tế còn rất hạn chế. Sau khi khái quát bức tranh tổng quan về hộ kinh doanh ở Việt Nam, bài viết sẽ trình bày thực trạng “chính thức hóa” hộ kinh doanh thời gian qua, luận giải sự không “mặn mà” của hộ kinh doanh trong việc chính thức hóa và đề xuất một số định hướng hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy, khuyến khích chính thức hóa hộ kinh doanh trong thời gian tới.

Từ khóa: Hộ kinh doanh, chính thức hóa, doanh nghiệp.

 

“Formalizing” business households or the transformation of business households into enterprises operating under the Enterprise Law has been regulated in legal documents since 1999; however, not many enterprises were transformed from business households. After providing the overview picture of business households in Vietnam, the paper will analyze the real situation of formalization of business households, explain the main reasons for slow progress in formalization, and provide some recommendation for encouraging the formalization of business households in the coming time.

Keywords: Business households, formalization, enterprise.

 

1. Bức tranh tổng quan về hộ kinh doanh ở Việt Nam

Hộ kinh doanh có lịch sử lâu đời ở Việt Nam với nhiều tên gọi khác nhau như tổ chức tiểu sản xuất hàng hóa (trước Đổi mới), hộ cá thể, hộ tiểu công nghiệp, nhóm kinh doanh, hộ kinh doanh cá thể... và thay đổi theo từng thời kỳ. Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 về đăng ký doanh nghiệp quy định “Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc các thành viên hộ gia đình đăng ký thành lập và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh của hộ. Trường hợp các thành viên hộ gia đình đăng ký hộ kinh doanh thì ủy quyền cho một thành viên làm đại diện hộ kinh doanh. Cá nhân đăng ký hộ kinh doanh, người được các thành viên hộ gia đình ủy quyền làm đại diện hộ kinh doanh là chủ hộ kinh doanh”.

Đến nay, cả nước đã có khoảng hơn 5 triệu hộ kinh doanh, phân bố ở tất cả các vùng, miền, đặc biệt vùng Đồng bằng sông Hồng (chiếm hơn 25%); vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung (chiếm hơn 23%).

Bảng 1. Phân bố hộ kinh doanh theo vùng

 

Năm

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

Tổng số (1000 hộ)

4.236,3

4.628,8

4.536,0

4.671,3

4.754,8

4.909,8

5.142,9

5.198,7

5.377,7

5.200,4

5.067,4

Cơ cấu (%)

100

100

100

100

100

100

100

100

100

100

100

Đồng bằng sông Hồng

26,29

26,65

26,10

26,00

25,83

25,60

25,85

25,47

25,15

25,10

25,24

Trung du miền núi phía Bắc

8,98

9,30

9,33

9,33

9,26

9,18

9,51

9,26

9,18

9,34

9,66

Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung

23,12

22,77

23,04

22,94

23,05

22,94

23,02

23,12

22,92

23,09

23,44

Tây Nguyên

4,43

4,62

4,84

4,92

4,76

4,82

4,76

4,86

5,06

5,00

5,22

Đông Nam bộ

15,86

16,18

16,58

16,70

17,25

17,44

17,54

18,13

18,25

18,18

17,00

Đồng bằng sông Cửu Long

21,31

20,48

20,12

20,11

19,85

20,03

19,32

19,16

19,44

19,27

19,45

    Nguồn: Niên giám Thống kê hằng năm của Tổng cục Thống kê

Hộ kinh doanh hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ (chiếm gần 83%), đặc biệt lĩnh vực bán buôn, bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác, dịch vụ lưu trú, ăn uống.

Bảng 2. Phân bố hộ kinh doanh theo ngành nghề, lĩnh vực hoạt động

 

 

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

Tổng số

(1.000 hộ)

4.236,3

4.628,8

4.536,0

4.671,3

4.754,8

4.909,8

5.142,9

5.198,7

5.377,7

5.200,4

5.067,4

Cơ cấu (%)

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

Công nghiệp - xây dựng

22,4

21,1

20,7

20,0

18,8

18,4

18,3

18,1

17,9

16,7

17,3

Thương mại dịch vụ

Trong đó:

77,6

78,9

79,3

80,0

81,2

81,6

81,7

81,9

82,1

83,3

82,7

Bán buôn, bán lẻ; sửa chữa ô tô xe máy…

44,5

44,7

45,5

45,6

45,9

45,9

45,4

45,4

45,4

45,4

45,6

Vận tải kho bãi

6,2

5,7

5,3

5,1

5,1

4,9

5,0

4,9

4,9

5,1

4,9

Dịch vụ lưu trú và ăn uống

14,9

16,0

15,7

16,0

15,6

15,9

16,0

16,1

16,2

16,8

16,5

Thông tin, truyền thông

0,8

0,6

0,7

0,7

0,7

0,7

0,6

0,6

0,6

0,4

0,3

Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm

0,3

0,2

0,2

0,3

0,2

0,3

0,2

0,2

0,2

0,2

0,2

Kinh doanh bất động sản

3,6

4,1

4,3

4,4

5,9

5,9

6,5

6,6

6,8

7,1

6,9

Chuyên môn khoa học công nghệ

0,5

0,4

0,4

0,4

0,4

0,4

0,3

0,3

0,3

0,3

0,3

Hành chính, dịch vụ hỗ trợ

0,9

0,9

0,9

0,9

1,0

1,0

1,0

1,0

1,0

1,0

1,0

Giáo dục - Đào tạo

0,2

0,3

0,3

0,3

0,3

0,3

0,3

0,3

0,3

0,3

0,3

Y tế, cứu trợ XH

0,5

0,5

0,5

0,5

0,5

0,6

0,5

0,5

0,5

0,6

0,6

Nghệ thuật, giải trí

0,8

0,8

0,8

0,8

0,7

0,7

0,6

0,6

0,6

0,6

0,5

Dịch vụ khác

4,7

4,7

4,8

5,0

4,9

5,0

5,1

5,2

5,1

5,5

5,7

Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám Thống kê hằng năm của Tổng cục Thống kê

Quy mô hộ kinh doanh chủ yếu là nhỏ và siêu nhỏ. Xét theo quy mô lao động, bình quân năm, mỗi hộ kinh doanh có số lượng lao động rất thấp. Theo số liệu sơ bộ năm 2021, mỗi hộ kinh doanh bình quân có 1,68 lao động, trong đó mỗi hộ kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có 2,32 lao động; trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ có 1,54 lao động. Xây dựng là lĩnh vực mà hộ kinh doanh có số lao động bình quân năm cao nhất (5,4 lao động/ hộ kinh doanh).

Doanh thu bình quân năm cao nhất thuộc về các hộ kinh doanh hoạt động bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và các xe có động cơ khác và thấp nhất thuộc về các hộ kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực lưu trú, ăn uống và dịch vụ khác, với mức tương ứng theo Tổng điều tra kinh tế năm 2017 của Tổng cục Thống kê là 720 triệu đồng/hộ và 330 triệu đồng/hộ.

Hình 1. Kết quả sản xuất - kinh doanh theo lĩnh vực hoạt động của hộ kinh doanh

Đơn vị: Triệu đồng

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Hộ kinh doanh đóng góp lớn trong tạo việc làm, thu nhập và giải quyết các vấn đề xã hội khi hộ kinh doanh đang tạo việc làm cho gần 8,5 triệu lao động trong bối cảnh sức ép về việc làm trong xã hội rất lớn. Hơn nữa, một bộ phận không nhỏ hộ kinh doanh đang hoạt động trong các làng nghề cũng góp phần rất lớn vào việc gìn giữ, bảo tồn và phát triển các ngành nghề truyền thống - một phần của văn hóa dân tộc Việt Nam.

Hộ kinh doanh có vai trò đáng kể trong tạo ra của cải vật chất, hàng hóa, dịch vụ cho xã hội và trực tiếp đóng góp quan trọng trong tăng trưởng kinh tế (với tỷ trọng đóng góp khoảng 30% GDP hằng năm). Mô hình hộ kinh doanh góp phần thúc đẩy tinh thần kinh doanh ở Việt Nam khi đây là mô hình khởi sự kinh doanh phổ biến nhờ sự đơn giản về thủ tục gia nhập thị trường, ít ràng buộc về tổ chức quản lý, phù hợp nhiều thành phần, lứa tuổi, vùng miền, không đòi hỏi quá cao về năng lực tài chính và chi phí vốn thấp.

Tuy nhiên, với đặc trưng kinh doanh nhỏ lẻ, hộ kinh doanh còn nhiều hạn chế về năng lực kinh doanh, ứng dụng công nghệ và trình độ quản lý dẫn đến hiệu quả hoạt động thấp, năng suất lao động không cao, đóng góp của hộ kinh doanh vào thu ngân sách nhà nước chưa tương xứng. Mặc dù số lượng hộ kinh doanh tăng hằng năm và gấp gần 10 lần số doanh nghiệp nhưng số thu của hộ kinh doanh chiếm chưa đến 2% tổng thu ngành thuế và có xu hướng giảm. Hơn nữa, mô hình hộ kinh doanh chỉ thích hợp với kinh doanh quy mô nhỏ tại các địa phương và trong phạm vi hẹp của một số ngành thương mại, dịch vụ, phục vụ cá nhân và cộng đồng, ít phát triển hơn được trong những ngành sản xuất vật chất đòi hỏi vốn lớn, mặt bằng rộng, đầu tư công nghệ cao…

2. Thực trạng “chính thức hóa” hộ kinh doanh ở Việt Nam

Khái niệm “chính thức hóa” đề cập đến quá trình đưa các cơ sở sản xuất - kinh doanh hoạt động phi chính thức hay hoạt động trong khu vực phi chính thức thành các tổ chức chính thức, hoạt động trong các khu vực kinh tế chính thức thông qua đăng ký kinh doanh và kê khai thuế. Trong bài viết này, “chính thức hóa” hộ kinh doanh được hiểu là việc chuyển hộ kinh doanh thành doanh nghiệp, đăng ký hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.

Thực tế, việc chuyển hộ kinh doanh đủ điều kiện thành doanh nghiệp đã được quy định từ Luật Doanh nghiệp năm 1999: “Chính phủ hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi để hộ kinh doanh cá thể có quy mô lớn đang hoạt động theo Nghị định số 66/HĐBT ngày 02/3/1992 chuyển thành doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp”. Tiếp đó, Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã quy định cụ thể hơn, đó là “Hộ kinh doanh sử dụng thường xuyên từ 10 lao động trở lên phải đăng ký thành lập doanh nghiệp hoạt động theo quy định của Luật này” và Luật Doanh nghiệp năm 2014 tiếp tục quy định này. Luật Doanh nghiệp năm 2020 không quy định về hộ kinh doanh cũng như giới hạn quy mô lao động yêu cầu hộ kinh doanh phải chuyển thành doanh nghiệp nhưng văn bản hướng dẫn Luật (Nghị định số 01/2021/NĐ-CP) có những quy định điều chỉnh về hộ kinh doanh. Việc chuyển đổi từ hộ kinh doanh thành doanh nghiệp do hộ kinh doanh quyết định và việc đăng ký chuyển đổi từ hộ kinh doanh thành doanh nghiệp được quy định tại Điều 27 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP.

Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) năm 2017 cũng quy định về hỗ trợ DNNVV được chuyển đổi từ hộ kinh doanh (Điều 16). Nội dung hỗ trợ bao gồm: (i) Tư vấn, hướng dẫn miễn phí về hồ sơ, thủ tục thành lập doanh nghiệp; (ii) Miễn lệ phí đăng ký doanh nghiệp và phí cung cấp thông tin doanh nghiệp lần đầu; miễn phí thẩm định, phí, lệ phí cấp phép kinh doanh lần đầu đối với ngành, nghề kinh doanh có điều kiện; miễn lệ phí môn bài trong thời hạn 3 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu; (iii) Tư vấn, hướng dẫn miễn phí về các thủ tục hành chính thuế và chế độ kế toán trong thời hạn 3 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu; (iv) Miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp có thời hạn theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp; (v) Miễn, giảm tiền sử dụng đất có thời hạn theo quy định của pháp luật về đất đai. Nghị định số 39/2018/NĐ-CP và nay là Nghị định số 80/2021/NĐ-CP đã quy định chi tiết về các nội dung hỗ trợ đối với DNNVV được chuyển đổi từ hộ kinh doanh.

Bảng 3. Nội dung hỗ trợ DNNVV chuyển đổi từ hộ kinh doanh

 

Hỗ trợ tư vấn, hướng dẫn hồ sơ, thủ tục thành lập doanh nghiệp

1. Hộ kinh doanh đăng ký chuyển đổi thành doanh nghiệp được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giao Sở Kế hoạch và Đầu tư tư vấn, hướng dẫn miễn phí:

a) Trình tự, thủ tục, hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp;

b) Trình tự, thủ tục, hồ sơ đăng ký chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh đối với các ngành nghề kinh doanh có điều kiện (nếu có).

2. Hồ sơ để DNNVV được hưởng nội dung hỗ trợ quy định bao gồm:

a) Bản sao Giấy đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh;

b) Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký mã số thuế;

c) Bản sao chứng từ nộp lệ phí môn bài, các loại thuế và khoản nộp ngân sách nhà nước khác (nếu có), tờ khai thuế trong thời hạn 1 năm trước khi chuyển đổi.

3. Trình tự, thủ tục đăng ký tư vấn, hướng dẫn miễn phí:

a) Hộ kinh doanh đăng ký chuyển đổi có nhu cầu tư vấn, hướng dẫn, gửi đề nghị hỗ trợ thông qua hình thức trực tiếp hoặc trực tuyến tới Sở Kế hoạch và Đầu tư;

b) Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ, Sở Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm tư vấn, hướng dẫn miễn phí các nội dung quy định.

Hỗ trợ đăng ký doanh nghiệp, công bố thông tin doanh nghiệp

Doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi từ hộ kinh doanh được miễn lệ phí đăng ký doanh nghiệp lần đầu tại cơ quan đăng ký kinh doanh, miễn phí công bố nội dung đăng ký doanh nghiệp lần đầu tại Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia.

Hỗ trợ thủ tục đăng ký ngành, nghề kinh doanh có điều kiện

Doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi từ hộ kinh doanh tiếp tục hoạt động sản xuất - kinh doanh thuộc ngành, nghề kinh doanh có điều kiện mà không thay đổi về quy mô thì gửi đề nghị tới cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền để được cấp văn bản liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh.

Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề nghị của doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm cấp văn bản liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh cho doanh nghiệp.

Hỗ trợ lệ phí môn bài

Doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi từ hộ kinh doanh được miễn lệ phí môn bài trong thời hạn 3 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu.

Hỗ trợ tư vấn, hướng dẫn thủ tục hành chính thuế và chế độ kế toán

1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi từ hộ kinh doanh được tư vấn, hướng dẫn miễn phí về thủ tục hành chính thuế và chế độ kế toán trong thời hạn 3 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu.

2. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao Sở Tài chính thực hiện tư vấn, hướng dẫn miễn phí về thủ tục hành chính thuế và chế độ kế toán quy định.

Luật Hỗ trợ DNNVV cũng quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xây dựng và tổ chức triển khai kế hoạch và chương trình hỗ trợ DNNVV chuyển đổi từ hộ kinh doanh. Thực tế, ở nhiều địa phương cũng đã có những cơ chế, chính sách để khuyến khích hộ kinh doanh đăng ký thành lập doanh nghiệp. Các chính sách gồm chính sách hỗ trợ lệ phí đăng ký thành lập doanh nghiệp, lệ phí khắc dấu, thuế môn bài, kinh phí thực hiện phần mềm kế toán, biển hiệu doanh nghiệp... Bên cạnh đó, công tác hỗ trợ doanh nghiệp được chuyển đổi từ hộ kinh doanh cũng được các địa phương rất quan tâm. Đa số các địa phương đều tổ chức các buổi cung cấp thông tin, vận động, hỗ trợ tư vấn, hướng dẫn miễn phí về hồ sơ và thủ tục thành lập doanh nghiệp chuyển đổi từ hộ kinh doanh khi có nhu cầu. Theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2021), 14/58 địa phương báo có Chương trình, Đề án, Kế hoạch dành riêng cho hỗ trợ các hộ kinh doanh chuyển đổi sang doanh nghiệp.

Mặc dù đã có những quy định bắt buộc hoặc khuyến khích nhưng số lượng hộ kinh doanh chuyển thành doanh nghiệp không nhiều. Theo kết quả điều tra 374 hộ kinh doanh và 46 doanh nghiệp của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) năm 2017, chỉ có 17,8% số doanh nghiệp điều tra được đăng ký, thành lập trên cơ sở hộ kinh doanh và có đến 80% doanh nghiệp được thành lập mới từ đầu. Kết quả điều tra cũng cho thấy, có đến 11,3% hộ kinh doanh có quy mô từ 10 lao động trở lên nhưng chỉ có 5,63% hộ kinh doanh dự kiến chuyển sang các loại hình doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Theo quy mô vốn, 13,21% hộ kinh doanh có quy mô từ 300 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng dự kiến đăng ký hoạt động theo Luật Doanh nghiệp; 8,7% hộ kinh doanh có quy mô từ 1 tỷ đến 5 tỷ đồng sẽ đăng ký hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Theo ngành, lĩnh vực kinh doanh, 11,67% hộ kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ ăn uống, lưu trú dự kiến sẽ đăng ký hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Theo giới tính, 9,15% hộ kinh doanh có chủ hộ là nam giới dự kiến đăng ký hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp và chỉ 3,46% hộ kinh doanh có chủ hộ là nữ dự kiến đăng ký hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp. Trong giai đoạn 2018 - 2020, mặc dù có nhiều chính sách hỗ trợ đối với DNNVV được chuyển đổi từ hộ kinh doanh, cả nước chỉ có 1.875 doanh nghiệp thành lập trên cơ sở chuyển đổi từ hộ kinh doanh, trong đó tỉnh Thanh Hóa có hơn 1 nghìn doanh nghiệp chuyển đổi từ hộ kinh doanh trong hai năm 2018 và 2019, Bến Tre có 247 hộ, Thừa Thiên Huế có 40 hộ, Sóc Trăng có 13 hộ, Bình Định có 12 hộ, Ninh Thuận có 11 hộ, Đắk Nông có 10 hộ, Cà Mau có 8 hộ, Phú Thọ có 6 hộ, Lâm Đồng có 6 hộ, Phú Yên có 2 hộ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2021).

Việc các hộ kinh doanh hạn chế trong thực hiện chính thức hóa, chuyển đổi sang các loại hình doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp do nhiều nguyên nhân:

(i) Có sự phân biệt đối xử giữa các loại hình kinh doanh, khoảng trống pháp lý đối với hộ kinh doanh: Về nguyên tắc, việc lựa chọn mô hình kinh doanh (theo mô hình công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn..., hay hộ kinh doanh) là quyền của nhà đầu tư, tùy thuộc vào năng lực và nhu cầu của người chủ. Nhiều người muốn thử sức với hình thức là hộ kinh doanh khi khởi nghiệp để có sự linh hoạt cả về thủ tục hành chính và quản trị, để tích lũy kinh nghiệm, đợi thời cơ làm lớn hơn. Bên cạnh đó, cũng có chủ hộ kinh doanh chọn mô hình này vì bài toán lợi ích - chi phí. Khung pháp luật hiện hành cũng khuyến khích đăng ký dưới hình thức hộ kinh doanh hơn là các loại hình doanh nghiệp (trong đó có doanh nghiệp tư nhân) hay các hộ kinh doanh chưa mạnh dạn với việc phát triển thành doanh nghiệp. Khung pháp luật cũng như trên thực tế, hoạt động của hộ kinh doanh tương đối đơn giản, thuận tiện, ít chi phí, không bị kiểm soát nhiều từ các cơ quan quản lý. Nếu phát triển thành doanh nghiệp sẽ phải thực hiện rất nhiều bước, như mở sổ sách, thuê kế toán, lập báo cáo tài chính, bảo hiểm lao động, thuế..., quan trọng nhất là sự khác nhau giữa chế độ thuế khoán và thuế doanh nghiệp. Hộ kinh doanh được áp dụng chế độ thuế khoán, mức thuế thấp; hệ thống sổ sách đơn giản; việc gia nhập và rút khỏi thị trường cũng dễ dàng hơn. Nói cách khác, chi phí tuân thủ pháp luật theo mô hình hộ kinh doanh thường thấp hơn nhiều so với các loại hình công ty/doanh nghiệp khác.

Hơn nữa, việc quy định doanh nghiệp (kể cả siêu nhỏ) phải lập nhiều loại sổ cũng phát sinh chi phí cho doanh nghiệp, đặc biệt có thể là lý do để cán bộ thanh tra, kiểm toán kiểm tra sổ sách. Theo kết quả điều tra của ADB và CIEM (2017), có đến 86,96% doanh nghiệp và 64,61% hộ kinh doanh cho rằng doanh nghiệp “phải tuân thủ chặt chẽ hơn các quy định về kinh doanh” so với các hộ kinh doanh; 84,78% doanh nghiệp và 56,03% hộ kinh doanh cho rằng “chi phí cho công tác quản lý tài chính, kế toán cao hơn”; 82,61% số doanh nghiệp và 67,29% hộ kinh doanh cho rằng việc doanh nghiệp “chịu nhiều ràng buộc bởi quy định pháp luật về tổ chức quản lý doanh nghiệp” hơn so với hộ kinh doanh; 82,61% doanh nghiệp và 58,71% hộ kinh doanh cho rằng doanh nghiệp “phải tuân thủ chế độ hạch toán, sổ sách, chứng từ kế toán chặt chẽ và phức tạp hơn” so với hộ kinh doanh; 73,91% doanh nghiệp và 52,82% hộ kinh doanh cho rằng doanh nghiệp “phải chịu sự kiểm tra, thanh tra nhiều hơn từ các cơ quan/cán bộ thuế, lao động, môi trường, an ninh…”. Điều này cho thấy, chi phí tuân thủ pháp luật của các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt các hình thức công ty, có thể cao hơn nhiều so với hộ kinh doanh. Đây là lý do quan trọng mà nhiều hộ kinh doanh lớn không muốn đăng ký thành lập doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp.

Nói cách khác, việc chuyển đổi từ hộ kinh doanh thành doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, phần lớn hộ kinh doanh còn e ngại khi chuyển đổi sẽ phải nộp thuế cao hơn, chế độ kế toán, sổ sách, chứng từ phức tạp hơn; nhiều chủ hộ cho rằng việc chuyển đổi từ hộ kinh doanh lên doanh nghiệp mà không thay đổi nhiều về quy mô thì chỉ là hình thức tổ chức, phải xin nhiều loại giấy phép hoạt động có liên quan, phát sinh chi phí cả chính thức và không chính thức nên các hộ không muốn chuyển đổi thành doanh nghiệp; thậm chí có những hộ kinh doanh sau khi chuyển thành doanh nghiệp một số năm lại giải thể và trở lại mô hình hộ kinh doanh1.

Khung pháp lý cho hộ kinh doanh phát triển chưa đầy đủ, còn nhiều khoảng trống. Hộ kinh doanh cũng là một hình thức kinh doanh nhưng không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp nhưng lại áp dụng quy định về đăng ký kinh doanh Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 về đăng ký kinh doanh. Điều này làm cho địa vị pháp lý của hộ kinh doanh chưa thực sự rõ ràng. Hơn nữa, hệ thống pháp luật hiện nay điều chỉnh hoạt động kinh doanh dựa trên phân biệt về hình thức pháp lý, mà chưa dựa vào bản chất, tính chất và quy mô kinh doanh. Điều này có thể dẫn đến môi trường kinh doanh chưa thực sự phù hợp và không bình đẳng giữa hộ kinh doanh và các loại doanh nghiệp (doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần). Trong khi đó, về bản chất, hộ kinh doanh do một cá nhân làm chủ gần với hình thức doanh nghiệp tư nhân. Vì vậy, nhiều hộ kinh doanh quy mô rất lớn nhưng không thành lập doanh nghiệp2 do lo lắng phải chịu gánh nặng tuân thủ pháp luật lớn hơn; điều này không thúc đẩy kinh doanh chuyên nghiệp dưới hình thức doanh nghiệp với quyền kinh doanh được mở rộng hơn3.

(ii) Chính sách hỗ trợ DNNVV chưa thực sự hiệu quả, chưa đủ sức khuyến khích hộ kinh doanh chuyển sang các loại hình doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.

Theo Báo cáo đánh giá 3 năm thực hiện Luật Hỗ trợ DNNVV, kết quả thực hiện còn hạn chế, nhiều chính sách hỗ trợ hầu như chưa được thực hiện hoặc mức độ thực hiện không cao như chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với DNNVV, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo, DNNVV tham gia các cụm, chuỗi liên kết… Bên cạnh đó, nguồn lực hỗ trợ DNNVV hạn chế. Bên cạnh các tỉnh tự cân đối được ngân sách, có hơn 70% các địa phương báo cáo khó khăn bố trí nguồn lực để hỗ trợ DNNVV.

Chính sách khuyến khích, hỗ trợ hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp tập trung chủ yếu vào giai đoạn đầu chuyển đổi thành lập doanh nghiệp, chưa quan tâm đúng mức đến những hỗ trợ trong quá trình hoạt động, cũng như những việc xóa bỏ, giảm thiểu gánh nặng, sổ sách kế toán...

(iii) Những nguyên nhân xuất phát từ bản thân hộ kinh doanh. Phần lớn hộ kinh doanh có thói quen kinh doanh dựa trên mối quan hệ, quản lý dựa trên kinh nghiệm, chưa có kinh nghiệm quản lý kinh tế, am hiểu thị trường, chưa quen với khái niệm quản trị kinh doanh, quản trị doanh nghiệp, phạm vi hoạt động nhỏ, thường trong phạm vi hộ kinh doanh đặt trụ sở. Hơn nữa, trình độ quản lý của nhiều chủ hộ kinh doanh hạn chế, khi chuyển thành doanh nghiệp thì hoạt động sản xuất - kinh doanh phải thực hiện chuẩn mực hơn, việc ghi chép sổ sách cần chi tiết và rõ ràng. Các thủ tục kế toán, thuế phải được thực hiện bài bản, áp dụng công nghệ trực tuyến mà phần lớn người đứng đầu của hộ kinh doanh thường chưa qua đào tạo, trong khi chuyển đổi mô hình thành doanh nghiệp đồng nghĩa với việc phải quản lý sổ sách kế toán sẽ gây khó khăn cho họ. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, bản thân hộ kinh doanh không có nhu cầu tăng quy mô, mở rộng sản xuất - kinh doanh nên việc chuyển đổi thành doanh nghiệp không có nhiều ý nghĩa với họ.

Bên cạnh đó, ý thức tuân thủ pháp luật của nhiều hộ kinh doanh còn hạn chế. Tình trạng vi phạm pháp luật, đặc biệt pháp luật về thuế còn phổ biến. Hộ kinh doanh hoạt động nhưng không đăng ký kinh doanh, hoặc có đăng ký kinh doanh nhưng không đăng ký thuế.

3. Một số vấn đề đặt ra trong hoàn thiện cơ chế, chính sách

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đặt mục tiêu đến năm 2025 cả nước có khoảng 1,5 triệu doanh nghiệp và đến năm 2030 có khoảng 2 triệu doanh nghiệp. Để đạt mục tiêu đề ra, việc thúc đẩy chính thức hóa, khuyến khích hộ kinh doanh chuyển thành doanh nghiệp là một trong những cách thức quan trọng. Tuy nhiên, một số vấn đề sau cần được nghiên cứu, hoàn thiện, cụ thể:

(i) Nghiên cứu hoàn thiện khung pháp luật điều chỉnh hộ kinh doanh, tạo lập môi trường bình đẳng giữa các loại hình kinh doanh.

Nghiên cứu ban hành cơ chế, chính sách phù hợp với quy mô kinh doanh, tạo điều kiện, khuyến khích hộ kinh doanh phát triển. Tuy nhiên, cần từng bước tạo lập cơ chế, chính sách để hộ kinh doanh hoạt động theo đúng bản chất kinh tế và pháp lý như kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, đó là mô hình doanh nghiệp một chủ - một hình thức doanh nghiệp phổ biến cho những người kinh doanh nhỏ.

Nghiên cứu hoàn thiện khung pháp luật đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể, loại hình kinh doanh, đặc biệt các quy định pháp luật về kế toán, thuế, thanh tra, kiểm tra... Cân nhắc đổi mới quản lý nhà nước theo hướng dựa vào quy mô kinh doanh hơn là loại hình doanh nghiệp để tránh tình trạng hộ kinh doanh quy mô lớn được quản lý như hộ kinh doanh siêu nhỏ và doanh nghiệp siêu nhỏ lại phải thực hiện các gánh nặng tuân thủ như một doanh nghiệp quy mô lớn.

(ii) Cần có chính sách hỗ trợ đảm bảo doanh nghiệp sau chuyển đổi duy trì hoạt động và phát triển.

Các chính sách hỗ trợ cần toàn diện, bao trùm không chỉ ở khâu khuyến khích chuyển đổi thành lập doanh nghiệp mà tất cả các khâu sản xuất - kinh doanh để doanh nghiệp có chỗ dựa, tiếp tục phát triển, nhất là trong những năm đầu chuyển đổi.

Đảm bảo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp sau khi chuyển đổi từ hộ kinh doanh tiếp tục hoạt động thông qua việc giảm gánh nặng về sổ sách kế toán cho các DNNVV, đặc biệt doanh nghiệp siêu nhỏ theo hướng quy định chế độ kế toán phù hợp với quy mô và năng lực, trình độ của từng nhóm doanh nghiệp: Vừa, nhỏ và siêu nhỏ.

Tiếp tục hoàn thiện và cụ thể hóa các hình thức hỗ trợ: Hỗ trợ về thông tin và tư vấn; hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực; hỗ trợ tiếp cận tín dụng; hỗ trợ miễn, giảm, giãn thuế và các khoản nộp khác; hỗ trợ nâng cao năng lực; hỗ trợ tiếp cận mặt bằng sản xuất - kinh doanh; hỗ trợ xúc tiến, mở rộng thị trường; hỗ trợ quyết toán sổ sách kế toán... để doanh nghiệp sau chuyển đổi hoạt động ổn định, lâu dài.

Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực cho các hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp; nâng cao chất lượng đào tạo nghề tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn, qua đó nâng cao chất lượng lao động sau khi đào tạo, nhằm giảm chi phí tuyển dụng và giảm chi phí đào tạo lại lao động.

(iii) Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hộ kinh doanh.

Quản lý chặt chẽ việc đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế của hộ kinh doanh. Bắt buộc các hộ kinh doanh phải đăng ký trước khi hoạt động (trừ những lĩnh vực không phải đăng ký theo quy định); nâng chế tài xử phạt vi phạm.

Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan, đảm bảo đồng bộ trong công tác quản lý, đặc biệt là đảm bảo liên thông việc đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế đối với hộ kinh doanh. Có cơ chế kiểm tra sau đăng ký kinh doanh.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc đăng ký kinh doanh, thực hiện các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm, an toàn phòng chống cháy nổ, an toàn lao động... để bảo về quyền lợi người lao động, người tiêu dùng.

Đảm bảo công khai minh bạch trong quản lý nhà nước, đặc biệt công tác quản lý thuế. Điều chỉnh cách quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, đặc biệt việc xác định mức thuế. Từ kinh nghiệm quốc tế cho thấy, cần xây dựng hệ thống thuế khoán lũy tiến theo doanh thu. Việc áp dụng hệ thống thuế khoán lũy tiến theo doanh thu sẽ khuyến khích những hộ kinh doanh có doanh thu lớn phát triển thành doanh nghiệp, nộp thuế theo hệ thống thuế áp dụng cho các loại hình doanh nghiệp. Việc xác định doanh thu nên dựa vào đặc thù lĩnh vực hoạt động của hộ kinh doanh. Ví dụ sử dụng hóa đơn tiền điện, nước của hộ kinh doanh làm căn cứ xác định doanh thu đối với loại hình kinh doanh dịch vụ như nhà hàng, khách sạn; sử dụng số lượng lao động là căn cứ để xác định doanh thu đối với các hộ kinh doanh dịch vụ khác. Do tính chất của ngành kinh doanh dịch vụ nên chi phí điện, nước, số lượng lao động sẽ phản ảnh đúng quy mô hộ kinh doanh. Vì vậy, việc căn cứ vào đặc điểm của hộ kinh doanh để xác định doanh thu sẽ phù hợp hơn so với phương thức xác định doanh thu hiện tại.

Hình thành các trung tâm hoặc tăng cường chức năng, nhiệm vụ cho các Trung tâm hỗ trợ phát triển doanh nghiệp hiện nay trong thực hiện nhiệm vụ tư vấn, hỗ trợ, cung cấp thông tin cho hộ kinh doanh về định hướng pháp triển phù hợp với mô hình kinh doanh.

Thiết lập cơ sở dữ liệu quốc gia về hộ kinh doanh với cơ sở dữ liệu cập nhật, đầy đủ, tạo cơ sở cho việc số hóa công tác quản lý nhà nước đối với hộ kinh doanh.

Ngoài ra, cần khuyến khích, thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt để đảm bảo minh bạch trong hoạt động kinh doanh. Khuyến khích người dân yêu cầu bên bán cung cấp biên lai điện tử khi mua bất kỳ sản phẩm, dịch vụ nào.

Hộ kinh doanh là mô hình kinh doanh đã tồn tại từ lâu ở Việt Nam với những tên gọi được thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế - xã hội Việt Nam. Đến nay, hộ kinh doanh vẫn là mô hình kinh doanh phổ biến, được nhiều người sử dụng để hiện thực hóa ý tưởng kinh doanh. Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, trước áp lực cạnh tranh lớn, công nghệ thay đổi liên tục… đòi hỏi hộ kinh doanh phải điều chỉnh để vận hành chính thức hơn. Bên cạnh sự chủ động của hộ kinh doanh, Nhà nước cần có những điều chỉnh cơ chế, chính sách để thúc đẩy, khuyến khích các hộ kinh doanh thực hiện chính thức hóa.

 

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2021), Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 03/10/2017 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 10- NQ/TW ngày 03/6/2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

2. Nguyễn Thị Luyến, Phạm Đức Trung và cộng sự (2021), Một số giải pháp phát triển hộ kinh doanh theo hướng bền vững ở Việt Nam, Báo cáo nghiên cứu thuộc Chương trình cải cách kinh tế vĩ mô/Tăng trưởng xanh (GIZ).

3. Ngân hàng Phát triển châu Á và Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2017), “Chính thức hóa” hộ kinh doanh ở Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị chính sách, Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội.

Bài đăng trên Tạp chí Kinh tế tài chính Việt Nam số 4/2022

 

*1 Ví dụ khi thành lập một doanh nghiệp chế biến kẹo bánh thì phải có rất nhiều loại giấy phép, với nhiều thủ tục hành chính, thanh tra, kiểm tra nhưng với một hộ kinh doanh sản xuất kẹo bánh thủ công ở các làng nghề sẽ giảm bớt được rất nhiều giấy phép.

*2 Theo số liệu quản lý thuế năm 2017 thì số hộ kinh doanh có doanh thu từ 1 tỷ đồng trở lên là 102.095 hộ, nhiều hộ kinh doanh sử dụng hóa đơn thường xuyên có doanh thu lên đến vài trăm tỷ đồng/năm, nhiều hộ kinh doanh hoạt động trong các lĩnh vực đặc thù không phù hợp với mô hình hộ khoán như: Kinh doanh hóa chất, vật tư và thiết bị y tế, máy móc thiết bị xây dựng, vật liệu xây dựng có nguồn gốc tài nguyên khoáng sản...

*3 Số lượng doanh nghiệp tư nhân đăng ký thành lập mới hằng năm rất ít và có xu hướng giảm (từ 5.345 doanh nghiệp năm 2015 xuống còn 1.171 doanh nghiệp năm 2020) và công ty hợp danh thành lập mới cũng chỉ khoảng 10 công ty; trong khi đó, hộ kinh doanh tăng thêm hằng năm hàng trăm hộ.

Các tin khác

Bình chọn

Điểm bình chọn
0 / 5
Tổng 0 lượt bình chọn
5
0%
4
0%
3
0%
2
0%
1
0%