Sáng ngày 26/10/2022, tại Hà Nội, Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (CLTC) - Bộ Tài chính tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Chính sách tài chính phát triển kinh tế tuần hoàn ở một số quốc gia và khuyến nghị cho Việt Nam”. Hội thảo với sự tham dự của gần 50 đại biểu là các chuyên gia, nhà quản lý đại diện các đơn vị thuộc các bộ, ngành…
TS. Lê Thị Thùy Vân - Phó Viện trưởng Viện CLTC (Bộ Tài chính) phát biểu tại Hội thảo
Phát biểu khai mạc hội thảo, TS. Lê Thị Thùy Vân - Phó Viện trưởng Viện CLTC (Bộ Tài chính) cho biết, trong những năm qua, phát triển bền vững nói chung và phát triển kinh tế tuần hoàn (KTTH) nói riêng đã và đang được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra định hướng “Xây dựng nền kinh tế xanh, KTTH thân thiện với môi trường”. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 cũng nhấn mạnh: “Phát triển mô hình KTTH nhằm tạo động lực cho đổi mới sáng tạo và cải thiện năng suất lao động, góp phần thúc đẩy tăng trưởng xanh, đổi mới mô hình tăng trưởng”. Nghị quyết cũng đề ra các mục tiêu cụ thể đối với phát triển KTTH như: Góp phần giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP ít nhất 15% vào năm 2030 so với năm 2014, hướng tới mục tiêu phát thải ròng về “0” vào năm 2050; đến năm 2030 các dự án KTTH trở thành động lực chủ yếu trong giảm tiêu hao năng lượng sơ cấp; tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị được thu gom, xử lý đảm bảo tiêu chuẩn thông qua các mô hình KTTH đạt 50%; 100% rác thải hữu cơ ở đô thị và 70% rác thải hữu cơ ở nông thôn được tái chế...
Trên thế giới, ước tính đến nay có khoảng 30 quốc gia đã và đang xây dựng các lộ trình để phát triển KTTH, bao gồm cả các nền kinh tế phát triển tại châu Âu…, các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ… Nhiều quốc gia đã có những thành công nhất định trong quá trình chuyển đổi này như Đan Mạch, Thụy Điển, Hoa Kỳ... Việc tham khảo kinh nghiệm quốc tế trong thực hiện các chính sách phát triển KTTH nói chung, chính sách tài chính nói riêng là rất cần thiết để thiết kế, điều chỉnh các chính sách phù hợp với đặc điểm kinh tế Việt Nam.
Tại Hội thảo, TS. Nguyễn Hoàng Nam - Khoa Môi trường, Biến đổi khí hậu và Đô thị, Đại học Kinh tế quốc dân cho biết, chuyển dịch từ kinh tế tuyến tính sang KTTH đang là xu thế chung của cộng đồng thế giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Xu thế này không còn phải đánh đổi giữa phát triển kinh tế và môi trường, thực hiện được đồng thời nhiều mục tiêu của phát triển bền vững. Trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa nền kinh tế, gia tăng dân số và thay đổi trong phương thức tiêu dùng đã, đang và sẽ dẫn đến những hệ quả về cạn kiệt, suy thoái và ô nhiễm ngày càng tăng thì lựa chọn cách tiếp cận chuyển đổi sang nền KTTH cần được xem là một tất yếu phải thực hiện nhằm đạt được mục tiêu “phát triển kinh tế nhanh và bền vững”, rút ngắn khoảng cách phát triển so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Để thực hiện được định hướng này đỏi hỏi phải có sự nỗ lực của mọi thành phần trong xã hội, đặc biệt doanh nghiệp là động lực trung tâm, Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, dẫn dắt và cộng đồng tham gia thực hiện để thay đổi cả về nhận thức và hành vi của toàn xã hội.
TS. Nguyễn Hoàng Nam trình bày tham luận tại Hội thảo
Đồng quan điểm, theo TS. Lê Xuân Sang - Phó Viện trưởng, Viện Kinh tế Việt Nam, từ kinh nghiệm của Trung Quốc, có thể thấy các chính sách, pháp luật mới dành riêng cho KTTH, đặc biệt là về thuế và các hệ thống lãi suất có khả năng chồng chéo lẫn nhau, đồng thời gây ra sự vướng mắc đối với các hệ thống chính sách về nguyên vật liệu cũ, do đó, để xây dựng các công cụ tài chính dành cho phát triển KTTH, cần có sự xây dựng từ trên xuống, phân tích cụ thể các chính sách liên quan, dựa trên nhu cầu cụ thể từ vi mô để tránh sự chồng chéo giữa hệ thống văn bản. Ý thức của người dân có ảnh hưởng đến hiệu lực thực thi, nhất là hành vi xả thải. Công nghệ 4.0 là một công cụ hữu hiệu trong việc quản lý, giám sát, đòi hỏi cần tăng chi ngân sách nhà nước cho lĩnh vực này. Kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy, sự liên kết giữa khu vực công và khu vực tư nhân trong huy động tài chính dành cho KTTH là rất quan trọng. Khu vực công có thể giảm thiểu được phần lớn chi phí dành cho các doanh nghiệp nếu các quyết sách đưa ra hợp lý, đặc biệt trong việc hình thành các văn hóa tuần hoàn, bảo vệ môi trường và giữ gìn tài nguyên. Thêm vào đó, các chi phí tăng thêm đối với phía cầu có thể nhận được sự chấp nhận cao từ người dân để các nhà cung ứng có thể tái chế và tái sản xuất dưới chi phí thấp nhất. Điều này vô cùng quan trọng bởi KTTH không thể dựa vào sự chủ động tự chuyển đổi của doanh nghiệp do chi phí chuyển đổi đắt đỏ đối với các công nghệ tái chế, tái tạo hiện đại, phân tách hiện đại.
TS. Lê Xuân Sang phát biểu tại Hội thảo
Bên cạnh đó, khung pháp lý và chính sách và nguồn lực tài chính Việt Nam đến nay vẫn chủ yếu và trực diện cho các chương trình dự án bảo vệ môi trường, tăng trưởng xanh, biến đổi khí hậu, phát triển bền vững, chống biến đổi khi hậu... Quyết định số 687/QĐ-TTg ngày 07/6/2022 phê duyệt Đề án Phát triển KTTH ở Việt Nam với các văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành đang được xây dựng, hoàn thiện. Quyết định này được kỳ vọng giúp đẩy nhanh quá trình phát triển KTTH tại Việt Nam trong tương lai. TS. Lê Xuân Sang nhấn mạnh, quá trình chuyển đổi sang nền KTTH là một quá trình phức tạp, đòi hỏi sự tham gia của nhiều cấp chính quyền và nhiều bên liên quan để có thể được tạo điều kiện thuận lợi bằng các can thiệp chính sách, nhất là chính sách thuế thích hợp, hữu hiệu, mang tính kiến tạo phát triển.
PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh - chuyên gia kinh tế cho rằng, thực tế khó nhất hiện nay các chính sách, văn bản pháp luật quy định về KTTH còn chưa đầy đủ; hệ thống, tiềm lực của Nhà nước cũng không nhiều cho việc thực hiện các dự án chương trình khôi phục tài nguyên môi trường tài nguyên thiên nhiên. Để có thể nhận được sự hưởng ứng và tham gia của toàn thể các thành phần kinh tế và thành viên thị trường, cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, triển khai các chương trình hội nghị, đào tạo phổ biến các kiến thức về chủ trương, chính sách, trách nhiệm môi trường, xã hội của doanh nghiệp, giới thiệu các sản phẩm tài chính xanh tới công chúng đầu tư... Ngoài ra, công tác tuyên truyền cần được triển khai đồng bộ với sự phối, kết hợp của các bộ, ngành, nhằm lan tỏa nhận thức đến toàn cộng đồng trong ý thức về bảo vệ môi trường và xã hội. Bên cạnh đó, Chính phủ cần thực hiện các chiến lược tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế xanh tạo nền tảng căn bản cho việc đặt ra mục tiêu và phát triển KTTH trong giai đoạn tiếp theo. Chính phủ cũng cần tiếp tục thực hiện rà soát, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống chính sách thuế, phí hiện hành nhằm bảo đảm thực hiện tốt mục tiêu về chuyển đổi sang mô hình KTTH, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Đặc biệt, diện ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp nên cân nhắc thu hẹp, không ưu đãi thuế đối với những ngành, lĩnh vực có lợi thế tự nhiên hoặc không có tác động lan tỏa lớn tới phát triển kinh tế - xã hội nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu của KTTH; giúp giảm bớt thất thu NSNN và giảm cơ hội chuyển giá, trốn và tránh thuế của các doanh nghiệp. Đồng thời, gia tăng cơ chế để các doanh nghiệp có trách nhiệm xử lý các phế thải sản phẩm hàng hóa mà doanh nghiệp đó tạo ra. Từ đó, đảm thực hiện tốt mục tiêu về chuyển đổi sang mô hình KTTH.
PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh phát biểu tại Hội thảo
Để chuyển đổi từ mô hình kinh tế tuyến tính sang KTTH đòi hỏi sự thay đổi hành động từ mọi chủ thể trong nền kinh tế, đồng thời đặt ra vấn đề nguồn lực tài chính cho quá trình chuyển đổi, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Tại Việt Nam, để huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính cho thúc đẩy quá trình chuyển đổi KTTH, cần chú trọng một số nội dung như: Các chính sách tài chính thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang nền KTTH cần dựa trên khuôn khổ pháp luật chung và định hướng chính sách chung về phát triển KTTH; chính sách thuế đóng vai trò quan trọng trong thay đổi hành vi sản xuất, tiêu dùng theo mô hình KTTH; phát triển các công cụ tài chính xanh, tài chính cho phát triển KTTH là trụ cột quan trọng để phân bổ, sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính hiện có cho các dự án KTHH; yêu cầu chung để áp dụng các giải pháp tài chính là cần tăng cường nhận thức về rủi ro “tuyến tính” khi đầu tư vào các dự án thâm dụng lớn tài nguyên, tạo ra lượng lớn chất thải và kết hợp đánh giá, tính chi phí nào vào quá trình ra quyết định tài chính; chú trọng công tác thảo luận và tư vấn chính sách đối với các chính sách tác động nhiều tới xã hội.
Toàn cảnh Hội thảo
Tiếp thu các ý kiến, TS. Lê Thị Thùy Vân nhấn mạnh, những vấn đề hội thảo luận bàn hết sức cấp thiết và quan trọng, bổ sung nhiều khuyến nghị cho Việt Nam như: Nâng cao nhận thức, sự chủ động, phát huy đổi mới sáng tạo và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, khuyến khích lối sống có trách nhiệm của từng cá nhân đối với cộng đồng và xã hội; quá trình cải cách cũng cần được cân nhắc rất thận trọng, hình thành được các “động cơ”, “động lực” đủ mạnh để thay đổi hành vi sản xuất và tiêu dùng của doanh nghiệp và người dân trong việc hướng đến các mục tiêu chuyển đổi sang mô hình KTTH; xác định các chương trình ưu tiên của Chính phủ để phát triển KTTH; thực thi chính sách thuế cho phát triển KTTH là dựa trên chiến lược, tầm nhìn dài hạn.
Nguyễn Trang