Với tốc độ tăng trưởng của thị trường thương mại điện tử hiện nay từ 20 - 25%/năm, ngành công nghiệp logistics dự báo sẽ có đà phát triển mạnh mẽ. Để đáp ứng nhu cầu phát triển ngành logistics, bên cạnh hạ tầng, thích ứng với các xu hướng phát triển xanh, bền vững, công tác đào tạo nguồn nhân lực cần được chú trọng về chất lượng, có trọng tâm.
.jpg)
Logistics Việt Nam nhiều tiềm năng thành trung tâm trung chuyển của toàn cầu
Theo Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam, tốc độ phát triển của ngành logistics tại Việt Nam những năm gần đây đạt khoảng 14 - 16%, với quy mô khoảng 40 - 42 tỷ USD/năm. Hiện thị trường logistics Việt Nam có sự tham gia của khoảng 3 nghìn doanh nghiệp trong nước và 30 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia. Trước sự phát triển của ngành thương mại điện tử, Việt Nam đang là điểm đến của nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất và hậu cần. Hiện tổng nguồn cung nhà kho ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chỉ đạt lần lượt 2.022 nghìn m2 và 5.130 nghìn m2. Các khu công nghiệp và hậu cần kho bãi tại các đô thị lớn, đặc biệt là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, đang có tỷ lệ lấp đầy cao, có những nơi đạt gần 100%. Nhu cầu sẽ ngày càng lớn trong thời gian tới, nguồn cung không thể đáp ứng nhu cầu đang đẩy sức ép cạnh tranh của doanh nghiệp bán lẻ và vận chuyển tăng lên.
Với quy mô thị trường lớn, số lượng người tiêu dùng trực tuyến tăng nhanh, thị trường thương mại điện tử Việt Nam cũng có tốc độ tăng trưởng ngoạn mục. Cụ thể, doanh thu thương mại điện tử tiếp tục ghi nhận tăng trưởng ấn tượng trong nửa đầu năm 2023, ước đạt 10,3 tỷ USD, tăng khoảng 25% so với cùng kỳ năm 2022, chiếm 7,7% doanh thu hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng cả nước.
Ngoài đặc điểm địa lý thuận lợi, cơ sở hạ tầng được đầu tư phát triển mạnh mẽ làm cho logistics Việt Nam nhiều tiềm năng thành trung tâm trung chuyển của toàn cầu. Theo thống kê của Bộ Giao thông Vận tải, trên toàn quốc có tổng chiều dài đường bộ 595.201 km; trong đó, đường bộ quốc gia là 25.560 km. Mạng lưới đường cao tốc đã đưa vào khai thác là 1.239 km; đang triển khai xây dựng khoảng 14 tuyến, đoạn tuyến, tương đương với 840 km.
Hệ thống cảng biển Việt Nam giai đoạn vừa qua đã được chú trọng đầu tư với quy mô, công nghệ hiện tại vươn tầm quốc tế đặc biệt là hệ thống cảng container (2 cảng biển lớn của Việt Nam là Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh đều nằm trong nhóm 50 cảng container lớn nhất trên thế giới). Hệ thống cảng biển với 286 bến cảng, tổng chiều dài cầu cảng hơn 96 km. Lần đầu tiên, các hãng vận tải biển đã có thể cung cấp dịch vụ trực tiếp từ Việt Nam tới khu vực Bắc Mỹ và châu Âu mà không cần đến các tàu gom để kết nối với các trung tâm trung chuyển khu vực như Singapore hay Hong Kong (Trung Quốc). Việc không cần đến tàu gom và giảm bớt được chi phí trung chuyển ước tính tiết kiệm được khoảng 150 -300 USD/TEU đối với những container đi và đến Việt Nam.
Ngành logistics thiếu nhân lực trình độ cao
Với thực trạng khan hiếm nguồn nhân lực, công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực logistics đã và đang được đẩy mạnh và ưu tiên trong thời gian qua. Các chương trình đào tạo ngắn hạn chủ yếu được đào tạo bởi các hiệp hội ngành nghề liên quan đến lĩnh vực Logistics, như: Hiệp hội doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), Hiệp hội Đại lý và Môi giới Hàng hải Việt Nam (VISABA), Hiệp hội Cảng biển Việt Nam (VPA), Hiệp hội Vận tải ô tô Việt Nam (VATA)... Hiện cả nước có 49/286 trường đại học trên phạm vi cả nước đào tạo về logistics ở nhiều cấp độ khác nhau. Có khoảng 91,1% số trường đào tạo theo chương trình đại trà; khoảng 11,1% số trường đào tạo chương trình chất lượng cao tích hợp chứng chỉ nghề quốc tế FIATA hoặc chương trình tiên tiến đào tạo bằng tiếng Anh.
.png)
Mặc dù được đánh giá là ngành dịch vụ có tiềm năng phát triển lớn, có vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế, nhưng nguồn nhân lực của ngành logistics (dịch vụ hậu cần) chỉ đáp ứng khoảng 40% nhu cầu. Theo kết quả khảo sát của VLA, 50% số doanh nghiệp logistics có nhu cầu cần tuyển dụng thêm 15 - 20% nhân viên và đến năm 2030, Việt Nam cần đến hơn 200 nghìn nhân lực phục vụ cho ngành này, đó là chưa kể đến nhu cầu nhân lực logistics tại doanh nghiệp sản xuất và thương mại. Trong khi đó, số lao động được đào tạo bài bản về dịch vụ logistics chỉ chiếm khoảng 5 - 7% số lao động hiện đang làm việc trong lĩnh vực này.
Thực tế cho thấy, quy mô đào tạo chính quy dài hạn và đào tạo ngắn hạn chưa đáp ứng được nhu cầu nhân lực logistics của doanh nghiệp hiện nay. Có đến 85,7% doanh nghiệp Việt Nam phải tự đào tạo, bồi dưỡng nhân lực logistics thông qua thực tế công việc. Đặc biệt, một số doanh nghiệp logistics quy mô lớn đã tự đầu tư trung tâm đào tạo nhân lực logistics và quản lý chuỗi cung ứng riêng để bảo đảm mục tiêu phát triển.
Cùng với đó, sự chuẩn bị về kiến thức, kỹ năng, thái độ cũng như trạng thái tâm lý của lao động logistics Việt Nam để sẵn sàng đón nhận làn sóng di chuyển lao động giữa các nước ASEAN chưa cao. Hơn nữa, vấn đề kỷ luật lao động, ý thức tuân thủ pháp luật cũng như cường độ lao động thấp cũng là những hạn chế cần có giải pháp khắc phục đối với nhân lực logistics Việt Nam.
Theo đại diện Sở Công Thương thành phố Đà Nẵng, thành phố hiện có khoảng 14 nghìn người làm việc trong lĩnh vực logistics, chiếm 2,7% nguồn lao động logistics trên cả nước và khoảng 40% nguồn lao động logistics vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Tuy nhiên, nguồn nhân lực chỉ đáp ứng khoảng 30 - 50% nhu cầu phát triển mạnh mẽ của ngành dịch vụ logistics. Phần lớn các doanh nghiệp phải tự đào tạo, bồi dưỡng nhân lực logistics thông qua thực tế công việc. Tại Đà Nẵng cũng như khu vực miền Trung, việc đào tạo nguồn nhân lực ngành logistics trong các trường đại học chủ yếu lồng ghép vào các ngành như ngoại thương, quan hệ quốc tế…nên để có nguồn nhân lực chất lượng để phục vụ cho ngành còn rất hạn chế.
Giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho ngành logistics
Để xây dựng nguồn nhân lực trong lĩnh vực logistics tại Việt Nam, các giải pháp cần sự tham gia và cam kết tích cực của các bên liên quan bao gồm Chính phủ, chính quyền địa phương, các doanh nghiệp logistics và các trường dạy nghề. Trong đó, các địa phương nên hình thành và liên kết với những trường đào tạo chuyên ngành về logistics, đặc biệt liên kết với nhà đầu tư từ nước ngoài trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho ngành này. Ngoài ra, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên trách với doanh nghiệp nhằm xác định chính xác nhu cầu lao động và tuyển dụng. Bên cạnh đó, Nhà nước cần xây dựng các bộ tiêu chuẩn nghề đối với lĩnh vực logistics, hỗ trợ các trường đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị thuộc lĩnh vực logistics…
Bên cạnh việc kiện toàn bộ máy, Hiệp hội Phát triển nhân lực logistics Việt Nam cần tạo niềm tin và động lực để hội viên cống hiến cho Hiệp hội, cho sự nghiệp phát triển nhân lực logistics. Cùng đó, Hiệp hội cần xây dựng Kế hoạch hoạt động theo năm/quý/tháng với những nhiệm vụ đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của hội viên nhưng phải có tính khả thi, thực tế khi triển khai thực hiện; tiếp tục tạo ra những hoạt động gắn kết hội viên, thúc đẩy liên kết hội viên dưới nhiều hình thức như giữa nhà trường với nhà trường, nhà trường với doanh nghiệp và khuyến khích doanh nghiệp tham gia sâu vào quá trình đào tạo. Các hội viên cũng cần phát huy hơn nữa tính chủ động, đề xuất các sáng kiến, góp ý với hoạt động của Hiệp hội; tham gia vào hoạt động trong các Ban chuyên môn của Hiệp hội, qua đó mở rộng quan hệ hợp tác, nâng cao kiến thức và giúp cho các Ban chuyên môn của Hiệp hội hoạt động hiệu quả, đa dạng hơn.
Các trường đại học, dạy nghề cần tiếp tục đổi mới, cập nhật chương trình đào tạo theo hướng tích hợp các nội dung, hoạt động nâng cao nhận thức và năng lực cho sinh viên về logistics và quản trị chuỗi cung ứng xanh, chuyển đổi số. Mặt khác, các cơ sở đào tạo cũng cần tăng cường kết nối quốc tế để trao đổi, học hỏi về kinh nghiệm đào tạo, tiếp cận nguồn lực chuyên gia từ các quốc gia tiên tiến, nguồn tài trợ phát triển cơ sở vật chất, nguồn học bổng phát triển nhân lực giảng viên, cơ hội chuyển giao công nghệ và hợp tác nghiên cứu khoa học, đáp ứng nhanh bài toán thực tiễn đặt ra.
Cùng với đó, các doanh nghiệp sử dụng nhân lực logistics tích cực tham gia công tác truyền thông, hỗ trợ tư vấn hướng nghiệp... để thu hút nguồn nhân lực có chất lượng vào lĩnh vực chuyên ngành này; do đây không chỉ là nhiệm vụ của các cấp quản lý, cơ sở đào tạo mà cần sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp, các tổ chức trong việc cung cấp thông tin, xây dựng nhiều hình thức động viên khuyến khích như cấp học bổng, hỗ trợ phương tiện giảng dạy, học tập. Về phía sinh viên, học viên nghề cần năng động hơn nữa trong quá trình tìm kiếm và tiếp cận các công ty dịch vụ logistics nếu muốn làm việc trong khu vực dịch vụ này, sau đó cần tích cực học hỏi trau dồi nghiệp vụ và kỹ năng làm việc. Nhóm lao động trực tiếp cần trau dồi học vấn, kỹ năng làm việc và tinh thần, thái độ làm việc.
Thanh Huyền