Chính sách tài chính nhằm giảm nghèo bền vững tại Việt Nam

Chính sách tài chính nhằm giảm nghèo bền vững tại Việt Nam 12/03/2024 15:59:00 3343

Cỡ chữ:A- A+
Tương phản:Giảm Tăng

Chính sách tài chính nhằm giảm nghèo bền vững tại Việt Nam

12/03/2024 15:59:00

- Đơn vị chủ trì: Trung tâm Thông tin và Dịch vụ tài chính

- Chủ nhiệm nhiệm vụ: CN. Nguyễn Thị Chinh

- Năm giao nhiệm vụ: 2022  Mã số: CLTC/ĐT/2022-43

 

1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu

Đảng và Nhà nước ta xác định công tác giảm nghèo bền vững là chủ trương lớn, quan trọng, nhất quán, xuyên suốt trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Những năm qua, hệ thống chính sách, pháp luật về giảm nghèo được ban hành khá đồng bộ, toàn diện. Cụ thể, Chính phủ đã ban hành 5 nghị định và 1 nghị quyết; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 7 quyết định; các bộ, ngành như: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; Bộ Tài chính; Bộ Thông tin và Truyền thông; Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam… ban hành các văn bản tổ chức thực hiện các nội dung theo chức năng, nhiệm vụ được giao thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn và hằng năm. Đối với địa phương, nhiều tỉnh, thành phố đã ban hành các chính sách đặc thù hỗ trợ địa bàn nghèo, hộ nghèo, hộ dân tộc thiểu số ít người, hộ nghèo dân tộc thiểu số, hộ cận nghèo, hộ thoát nghèo về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin…

Theo đó, ngân sách nhà nước (NSNN) và nguồn lực huy động từ xã hội đầu tư cho công tác giảm nghèo ngày càng tăng; nhận thức, ý chí vươn lên của người nghèo tăng cao, có nhiều tấm gương điển hình nỗ lực vươn lên thoát nghèo… Năm 1993, tỷ lệ hộ nghèo cả nước là 58,1%; giai đoạn 2001 - 2005 từ 17% xuống 7% cuối năm 2005, bình quân giảm 2%/năm, giai đoạn 2006 - 2010 từ 22% cuối năm 2005 xuống 9,45%, bình quân giảm 2,51%/năm; giai đoạn 2011 - 2015 từ 14,2% xuống 4,25%, bình quân giảm 2%/năm; giai đoạn 2016 - 2020 từ 9,88% xuống 2,75%, bình quân giảm 1,43%/năm; đến cuối năm 2021, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 2,23%... Việt Nam đã hoàn thành sớm mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về xóa đói, giảm nghèo, được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng về giảm nghèo trên thế giới.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, kết quả giảm nghèo chưa thật sự bền vững, nguy cơ tái nghèo và phát sinh nghèo còn cao. Chênh lệch mức sống, điều kiện tiếp cận các dịch vụ cơ bản, tiếp cận thị trường, giải quyết việc làm giữa các địa phương, vùng, miền, nhóm dân cư chưa được thu hẹp nhiều... Nhiều nguyên nhân được chỉ ra như cơ chế, chính sách, chương trình giảm nghèo chưa thực sự hiệu quả; nguồn lực đầu tư cho giảm nghèo chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn; một bộ phận người nghèo vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng, chưa chủ động tự vươn lên thoát nghèo…

Ngày 23/6/2021, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo bền vững đến năm 2030, trong đó nhấn mạnh: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách giảm nghèo, chuẩn nghèo đa chiều gắn với mục tiêu phát triển bền vững, bảo đảm mức sống tối thiểu tăng dần và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân; đổi mới cách tiếp cận về giảm nghèo, ban hành chính sách hỗ trợ có điều kiện, tăng cường tín dụng chính sách xã hội cho người nghèo...”.

Ngày 18/01/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 90/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025, trong đó Chính phủ cũng giao Bộ Tài chính chủ trì hướng dẫn cơ chế quản lý, sử dụng, thanh quyết toán kinh phí nguồn ngân sách trung ương (NSTW) thực hiện Chương trình; chủ trì phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan xây dựng kế hoạch hằng năm, tổng hợp kinh phí chi sự nghiệp nguồn NSTW để đảm bảo hoạt động của Chương trình; cân đối, bố trí đủ vốn sự nghiệp và có kế hoạch bổ sung vốn cho Chương trình theo tiến độ và kế hoạch đầu tư trung hạn, hàng năm, trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.

Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra mục tiêu tỷ lệ nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1 - 1,5%/năm; Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm nguồn lực, đồng thời huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội trong và ngoài nước trong công tác giảm nghèo bền vững.

Vì những lý do trên, việc nghiên cứu chủ đề “Chính sách tài chính nhằm giảm nghèo bền vững tại Việt Nam” là cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính nhằm giảm nghèo bền vững tại Việt Nam trong thời gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Chính sách tài chính nhằm giảm nghèo bền vững.

- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu chính sách tài chính của một số nước và Việt Nam nhằm giảm nghèo bền vững, tập trung chính sách chi NSNN; chính sách tín dụng (tín dụng chính sách); chính sách thuế, phí và đất đai trong giai đoạn 2002 - 2022.

4. Kết quả nghiên cứu

(1) Đề tài đã phân tích được một số vấn đề lý luận về chính sách tài chính nhằm giảm nghèo bền vững. Trong đó, giảm nghèo bền vững là tình trạng dân cư đạt được mức độ thỏa mãn những nhu cầu cơ bản hay mức thu nhập cao hơn chuẩn nghèo và duy trì được mức độ thỏa mãn những nhu cầu cơ bản hay mức thu nhập trên mức chuẩn đó ngay cả khi gặp phải các cú sốc hay rủi ro; giảm nghèo bền vững có thể được hiểu là thoát nghèo bền vững hay không tái nghèo. Đề tài cũng đã phân loại về nghèo gồm có: Nghèo kinh niên; nghèo nhất thời; nghèo đơn chiều; nghèo đa chiều; nghèo tương đối; nghèo tuyệt đối); chỉ rõ vai trò của giảm nghèo bền vững đối với an sinh xã hội và phát triển kinh tế. Đề tài cũng phân tích nội hàm của chính sách tài chính nhằm giảm nghèo bền vững gồm chính sách tín dụng; chính sách chi NSNN; chính sách thuế, phí và đất đai.

Đề tài đã nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia (Hoa Kỳ, Canada, Mexico, Hồng Kông, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia, Philippines) và rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam như sau: (i) Việc hỗ trợ đối tượng cận nghèo là cần thiết. Việc hỗ trợ đối tượng hộ cận nghèo (như chăm sóc sức khỏe tại Hoa Kỳ) giúp các đối tượng cận nghèo tiếp cận các dịch vụ an sinh xã hội. Xóa đói giảm nghèo và cung cấp các dịch vụ cơ bản tối thiểu là những yếu tố không thể thiếu trong bất kỳ chiến lược nào nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống; (ii) Hỗ trợ giảm nghèo từ tín dụng, NSNN có thể thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau, tùy thuộc vào từng đối tượng (Hoa Kỳ, Trung Quốc, Mexico...). Việc hỗ trợ tiền mặt và hiện vật có thể thực hiện đan xen, hoặc chỉ chọn một hình thức đối với từng đối tượng (nghèo, cận nghèo, mới thoát nghèo) đối với các trường hợp hỗ trợ nông nghiệp, giáo dục, y tế và nhà ở; (iii) Cần nghiên cứu chính sách hỗ trợ đối tượng nghèo, có hoàn cảnh nâng cao khả năng tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi của nhà nước để trình độ giáo dục đào tạo, nâng cao học vấn; (iv) Giảm nghèo cần được xem xét ở góc độ đa chiều (phi tiền tệ) để người nghèo được tiếp cận các dịch vụ cơ bản; (v) Tăng cường sự hỗ trợ phát triển cơ hội việc làm phi nông nghiệp; phát triển cơ sở hạ tầng về đường sá, điện và nước uống an toàn sử dụng chủ yếu là lao động nông thôn; phổ cập giáo dục tiểu học và y tế phòng bệnh, chữa bệnh cơ bản; (vi) Giảm nghèo thường đóng vai trò, là mục tiêu quan trọng của các quốc gia. Kinh nghiệm các quốc gia cho thấy, tỷ lệ nghèo ở nông thôn là chủ yếu. Do vậy, có thể cân nhắc các Kế hoạch phát triển kinh tế đặt trọng tâm về phát triển khu nông thôn và giảm nghèo, công bằng xã hội cùng với xóa bỏ tình trạng người dân sống dưới mức chuẩn nghèo. Do đó, việc thành lập một cơ quan (gồm đại diện cơ quan trung ương, địa phương, một số hiệp hội...) chuyên nghiên cứu, đánh giá tình trạng nghèo đói và đưa ra các giải pháp giải quyết cần được quan tâm (Thái Lan, Hồng Kông); (viii) Định kỳ cần rà soát cơ sở dữ liệu hộ nghèo, cận nghèo, hộ khó khăn tại các địa phương trong cả nước để có phương án hỗ trợ tốt nhất cho các đối tượng.

(2) Đề tài đã phân tích, đánh giá thực trạng chính sách tài chính nhằm giảm nghèo bền vững tại Việt Nam, từ đó đề tài đã chỉ ra các kết quả đạt được và hạn chế. (1) Về kết quả đạt được: (i) Chính sách tín dụng: Tín dụng chính sách xã hội đã giúp cho gần 6,3 triệu hộ gia đình vượt qua ngưỡng nghèo, giải quyết việc làm cho hơn 5,9 triệu lao động, góp phần hỗ trợ đầu tư sản xuất - kinh doanh; chất lượng tín dụng chính sách xã hội luôn được duy trì, củng cố, nâng cao, đảm bảo mục tiêu bảo toàn, phát triển vốn cho Nhà nước; chương trình tín dụng đối với học sinh sinh viên đã tạo sự gắn kết giữa kinh tế với xã hội trong công tác giảm nghèo, an sinh xã hội, góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Chính sách tín dụng cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số giúp hộ đồng bào dân tộc thiểu số được thụ hưởng hầu hết các chương trình tín dụng, như cho vay hộ nghèo, hộ cận nghèo, cho vay hộ đồng bào thiểu số đặc biệt khó khăn. Về chính sách tín dụng hỗ trợ hộ nghèo xây dựng chòi phòng, tránh bão, lũ lụt đã hỗ trợ được khoảng 19.032/23.797 hộ nghèo xây dựng chòi phòng, tránh bão, lũ lụt (đạt 80%), trong đó vốn tín dụng chính sách xây dựng được 14.844 hộ. Chính sách tín dụng hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở đã hỗ trợ cho hơn 124 nghìn hộ nghèo, đạt 53% số hộ phải hỗ trợ thực tế; (ii) Chính sách chi NSNN: Hệ thống cơ chế, chính sách về giảm nghèo được ban hành và tổ chức triển khai đồng bộ trên các lĩnh vực (y tế, giáo dục, nhà ở, tín dụng ưu đãi, hỗ trợ tiền điện, phát triển sản xuất, tạo việc làm; hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng…). Cơ chế, chính sách được rà soát, sửa đổi, bổ sung theo hướng giảm dần các chính sách hỗ trợ trực tiếp, cho không, tăng cường hỗ trợ có điều kiện cho hộ nghèo vươn lên thoát nghèo bền vững; đẩy mạnh phân cấp, trao quyền cho cơ sở, người dân, phát huy vai trò của cộng đồng, khuyến khích các sáng kiến giảm nghèo bền vững do cộng đồng đề xuất, thực hiện, nhất là khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; mặc dù nước ta gặp nhiều thiên tai, bệnh dịch, NSNN còn nhiều khó khăn, nhưng Nhà nước đã tăng nguồn lực đầu tư cho giảm nghèo, luôn bố trí vượt mức đầu tư đã được phê duyệt trong Chương trình, giai đoạn 2016 - 2020 bố trí tăng 1,02% so với kế hoạch, gấp 2 lần so với giai đoạn trước, 21% NSNN đã dành cho phúc lợi xã hội - Đây là mức cao nhất trong các nước ASEAN; (iii) Chính sách thuế, phí và đất đai: Chính sách thuế GTGT, phí và lệ phí áp dụng đối với các đối tượng nghèo, khó khăn trong thời qian qua về cơ bản đáp ứng được mục tiêu của chính sách là hỗ trợ được người nghèo; chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp kể từ năm 2010 - 2025 cho hộ nghèo quy định trong Nghị quyết số 55/2010/QH12, Nghị quyết số 107/2020/QH14 về kéo dài thời hạn miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp, đã và đang giúp nông dân xóa đói, giảm nghèo, hỗ trợ phát triển nông nghiệp quy mô lớn; (2) Tồn tại, hạn chế: (i) Chính sách tín dụng: Nguồn lực thực hiện tín dụng chính sách xã hội tuy đã được quan tâm bổ sung hằng năm, nhưng còn hạn chế so với nhu cầu thực tế của người nghèo cũng như các đối tượng chính sách khác; Nghị định số 78/2002/NĐ-CP của Chính phủ về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác quy định nguồn vốn tín dụng ưu đãi do NSNN cấp nhưng chưa quy định tiêu chí cụ thể để tổ chức thực hiện; cơ cấu nguồn vốn chính sách chưa thực sự hợp lý và đảm bảo tính bền vững đối với giảm nghèo; chưa có chính sách vay vốn phục vụ hộ cận nghèo ở khu vực nông thôn để xây dựng, sửa chữa nhà cửa, trong khi nhà ở là một tiêu chí đánh giá việc tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản khi điều tra, phân loại hộ nghèo, hộ cận nghèo; chưa có chính sách cho vay vốn phục vụ nhu cầu sản xuất - kinh doanh đối với hộ có mức sống trung bình làm nông, lâm, ngư, diêm nghiệp; mức cho vay 30 triệu đồng đối với hộ cận nghèo còn thấp; hộ mới thoát nghèo chủ yếu được hưởng chính sách vay vốn tín dụng theo Quyết định số 28/2015/QĐ-TTg, tuy nhiên lại bị ràng buộc bởi nhiều quy định; mức cho vay 4 triệu đồng/tháng đối với học sinh sinh viên khó có thể hỗ trợ tốt cho các học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn; hộ nghèo xây dựng nhà ở phòng, tránh bão, lụt theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021 - 2025 lại chưa được quy định, nên không có cơ sở để triển khai; (ii) Chính sách chi NSNN: Tình trạng giải ngân vốn vẫn còn hạn chế, bố trí vốn giảm nghèo các năm còn thiếu cân đối, làm ảnh hưởng đến công tác giảm nghèo; nguồn vốn NSTW để thực hiện Chương trình giảm nghèo bền vững trong những năm qua bố trí còn thấp; công tác triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2021 - 2025 ở một số địa phương còn chậm; các chính sách hỗ trợ giảm nghèo còn mang tính chia đều, cho không là chính; việc phân bổ vốn còn chưa đáp ứng yêu cầu về tiến độ do sự chậm trễ của một số bộ, ngành, địa phương trong quá trình xây dựng kế hoạch và đề xuất kinh phí, thẩm định nguồn vốn thực hiện Chương trình…; (iii) Chính sách thuế, phí và đất đai: Việc hỗ trợ đất sản xuất cho hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số vẫn chưa được thực hiện triệt để, gây khó khăn trong việc giảm nghèo bền vững; mức hỗ trợ “3 cứng” (nền cứng, khung cứng, mái cứng) theo Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 còn thấp.

(3) Từ kinh nghiệm quốc tế và đánh giá thực trạng chính sách tài chính nhằm giảm nghèo bền vững tại Việt Nam thời gian qua; quan điểm, mục tiêu về chính sách tài chính nhằm giảm nghèo bền vững tại Việt Nam trong thời gian tới, đề tài kiến nghị hoàn thiện chính sách tài chính nhằm giảm nghèo bền vững tại Việt Nam như sau: (1) Về Chính sách tín dụng nhằm giảm nghèo bền vững tại Việt Nam: Tập trung rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật; cơ chế, chính sách liên quan đến tín dụng chính sách xã hội, trong đó cần sửa đổi, bổ sung Nghị định số 78/2002/NĐ-CP. Theo đó, quy định tiêu chí cụ thể đối với nguồn vốn tín dụng ưu đãi do NSNN cấp để tạo thuận lợi trong quá trình triển khai thực hiện; bổ sung các quy định liên quan ở các luật chuyên ngành khác liên quan đến cho vay giảm nghèo khi sửa đổi, bổ sung Nghị định này, tránh trường hợp có quy định mà không triển khai được; đẩy mạnh công tác phối hợp, quản lý, hướng dẫn của cơ quan, tổ chức ở địa phương nhằm thúc đẩy các hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số được vay vốn phục vụ sản xuất - kinh doanh, trong đó tập trung vào những dự án có tính liên kết, có mối liên hệ trong khâu sản xuất, tiêu thụ nhằm khắc phục tính nhỏ, lẻ trong sản xuất - kinh doanh, tạo điều kiện cho người vay vốn sớm thoát nghèo; chủ động nghiên cứu, đề xuất từng bước mở rộng đối tượng chính sách được vay vốn, nâng mức cho vay, thời hạn cho vay phù hợp với các Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo; hoàn thiện hệ thống chính sách giảm nghèo theo hướng tăng cường các chính sách hỗ trợ có điều kiện; tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi chính sách vay vốn cho sinh viên theo hướng mở rộng đối tượng được hưởng chính sách tín dụng sinh viên, nghiên cứu tăng số tiền vay theo phương án tăng hằng năm theo mức trượt giá; thực hiện các giải pháp hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho hộ cận nghèo tiếp cận tốt nhất các dịch vụ xã hội cơ bản để giảm nhanh các chiều nghèo còn đang thiếu hụt của hộ. Bên cạnh đó, trong xây dựng, thiết kế chính sách, cần quan tâm đồng đều đến các đối tượng hộ nghèo, hộ cận nghèo và cả hộ mới thoát nghèo, bởi khoảng cách giữa hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo là rất mong manh; nhằm đáp ứng nhu cầu và hỗ trợ hộ nghèo vùng thường xuyên bị thiên tai bão, lụt có chỗ ở an toàn, ổn định, từng bước nâng cao mức sống, góp phần xóa đói, giảm nghèo bền vững; (2) Chính sách chi NSNN: Cần bố trí đủ NSNN, lồng ghép các chương trình, huy động nguồn lực toàn xã hội để thực hiện các chính sách, chương trình giảm nghèo và an sinh xã hội; cần tập trung nguồn lực đầu tư có trọng tâm, trọng điểm và bền vững cho các địa phương trong huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao; khi thiết kế hoặc sửa đổi chính sách, cần kèm theo những điều kiện nhất định khi hỗ trợ cũng như sau một thời gian hỗ trợ để hạn chế tình trạng “cho không” gây lãng phí và tạo sự ỷ lại; (3) Chính sách thuế, phí, đất đai: Cần đẩy mạnh việc thực hiện Dự án 1 trong giai đoạn I (2021 - 2025) theo Quyết định số 1719/QĐ-TTg, giúp đồng bào dân tộc thiểu số phát triển ổn định sinh kế; giải quyết cơ bản vấn đề thiếu đất sản xuất bằng cách hỗ trợ đất sản xuất hoặc chuyển đổi sinh kế cho các hộ thiếu đất hoặc không có đất sản xuất; cần nghiên cứu, sửa đổi Khoản 1, Điều 74, Thông tư số 55/2023/TT-BTC quy định quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí sự nghiệp từ nguồn NSNN thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 - 2025 để nâng mức hộ trợ nhằm đảm bảo nền cứng, khung cứng, mái cứng theo quy định. Do đó, có thể nghiên cứu, xem xét tăng mức hỗ trợ xây nhà lên 70 - 80% giá trị nhà ở đạt tiêu chí cho hộ nghèo.

5. Thông tin nghiệm thu và lưu trữ

- Nghiệm thu: Đề tài đã được Hội đồng Tư vấn đánh giá, nghiệm thu thông qua (Quyết định số 109/QĐ-CLTC ngày 12/10/2023 của Viện Chiến lược và Chính sách tài chính về việc thành lập Hội đồng Tư vấn đánh giá, nghiệm thu nhiệm vụ KHCN cấp Cơ sở năm 2022).

- Lưu trữ: Đề tài được đóng quyển, lưu trữ tại Thư viện Viện Chiến lược và Chính sách tài chính./.

Bình chọn

Điểm bình chọn
0 / 5
Tổng 0 lượt bình chọn
5
0%
4
0%
3
0%
2
0%
1
0%