LÊ TIẾN TRƯỜNG
Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Dệt May Việt Nam
(Theo Tapchicongsan.org.vn) - Kinh tế xanh là một mô hình kinh tế mà mục tiêu chính là tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, đồng thời tạo ra cơ hội kinh doanh và việc làm bền vững. Phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam là một mục tiêu quan trọng, nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững. Là quốc gia có quy mô xuất khẩu dệt may lớn thứ ba thế giới, sử dụng khoảng ba triệu lao động trực tiếp trong các nhà máy sản xuất dệt may, trong xu thế chuyển đổi xanh, xanh hóa quá trình sản xuất, ngành dệt may Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội nắm bắt xu thế mới, nhưng cũng đối diện với nhiều thách thức và tiềm ẩn cả rủi ro.
Phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện môi trường và hướng tới phát triển bền vững. Qua đó, Việt Nam đóng vai trò ngày càng quan trọng trong các diễn đàn tăng trưởng xanh toàn cầu. Nhận thức được sự cần thiết của việc cân bằng giữa phát triển kinh tế và sự bền vững về môi trường - xã hội, tăng trưởng xanh luôn được đặt ưu tiên trong các chương trình nghị sự quốc gia, cũng như trong thiết kế chính sách liên quan.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định chủ trương “phát triển nhanh và bền vững” và phát triển kinh tế xanh: “Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chủ động thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu, quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”(1).
Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh 2012, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050, Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 - 2020, Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 là các chính sách nổi bật của Việt Nam để hướng tới thực hiện cam kết mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 tại COP 26. Kết quả là, trong hơn một thập niên qua, Việt Nam đã đạt được tiến bộ và nhiều thành tựu đáng kể trong thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh, cụ thể như sau:
Lợi ích môi trường: Việc theo đuổi tăng trưởng xanh đã mang lại kết quả tích cực về môi trường. Tốc độ tăng phát thải qua các năm đã giảm và lượng phát thải khí nhà kính bình quân đầu người vẫn ở mức thấp so với các nước trong khu vực. Việt Nam đã tăng độ che phủ rừng từ 38,7% năm 2008 lên 42% vào năm 2020(2). Chất lượng không khí được cải thiện trong giai đoạn 2018 - 2022, với nồng độ PM2,5 trung bình hằng năm giảm từ 32,9 xuống 27,2 (ìg/m³)(3).
Cơ hội kinh tế: Đầu tư vào dự án năng lượng tái tạo, bao gồm trang trại năng lượng gió và mặt trời, nông nghiệp bền vững và du lịch sinh thái, đã tạo ra cơ hội kinh tế và việc làm xanh, thúc đẩy phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Hoạt động kinh tế xanh ở Việt Nam đã tạo ra 6,7 tỷ USD vào năm 2020 (2% tổng GDP) với đà tăng trưởng vững chắc (10 - 13%/năm giai đoạn 2018 - 2020)(4), trong đó 41% là từ ngành năng lượng, 28% là từ hoạt động nông, lâm nghiệp, 14% là từ hoạt động công nghiệp và 17% là từ các ngành giao thông - vận tải, thông tin liên lạc, xử lý rác thải và xây dựng. Năm 2020, kinh tế xanh góp phần tạo ra khoảng hơn 400 nghìn việc làm, trong đó hơn một nửa đến từ các hoạt động nông, lâm nghiệp xanh và công nghệ cao (33%) và hoạt động công nghiệp (28%) - chủ yếu là sản xuất thiết bị, máy móc, phụ tùng phục vụ sản xuất năng lượng tái tạo và năng lượng sạch. Tuy nhiên, số lượng việc làm được tạo ra từ hoạt động kinh tế xanh của Việt Nam chưa nhiều (1,1% tổng số việc làm quốc gia(5)) so với các nước dẫn đầu (3,3% ở Pháp vào năm 2020 và 6,7% ở Trung Quốc vào năm 2022(6)).
Vị thế, uy tín quốc gia: Cam kết của Việt Nam về tăng trưởng xanh giúp nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam, thu hút đầu tư và mở rộng quan hệ với đối tác nước ngoài. Trong giai đoạn 2017 - 2021, khoảng 9 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã được huy động vào các lĩnh vực xanh tại Việt Nam, tập trung vào năng lượng tái tạo và sản xuất thiết bị, máy móc cho các dự án thuộc lĩnh vực tăng trưởng xanh. Về xếp hạng quốc tế, theo ấn bản năm 2023 của Chỉ số tăng trưởng xanh, Việt Nam xếp thứ 73/245 quốc gia và thứ 16/50 quốc gia châu Á, với điểm chỉ số 56,44. Việt Nam đã thực hiện tốt các khía cạnh bảo vệ vốn tự nhiên và hòa nhập xã hội, nhưng phải đối mặt với thách thức về khía cạnh hiệu quả tài nguyên và các cơ hội kinh tế xanh. Theo Chỉ số tương lai xanh ấn bản năm 2023, Việt Nam xếp thứ 53/76 nền kinh tế và thứ 9/16 nền kinh tế ở châu Á, đạt điểm chỉ số 4,13. Việt Nam xếp ở giữa trong các hạng mục chuyển đổi năng lượng, nhưng cần nỗ lực nâng thứ hạng trong các hạng mục về phát thải các-bon và chính sách khí hậu.
Động lực xanh hóa ngành dệt may Việt Nam
Mặc dù là một trong những ngành công nghiệp quan trọng, đóng góp đáng kể cho nền kinh tế toàn cầu, nhưng dệt may cũng là một trong những ngành gây ô nhiễm nhất trên thế giới, vì chuỗi cung ứng sử dụng nhiều tài nguyên và hóa chất, tạo ra lượng lớn chất thải, chất độc hại gây ô nhiễm môi trường không khí, nước và đất. Lượng khí thải các-bon hằng năm của ngành dệt may thế giới trong vòng đời sản phẩm thời trang (khoảng 3,3 tỷ tấn khí thải CO2) gần bằng lượng khí thải các-bon của cả 28 quốc gia trong khu vực Liên minh châu Âu (EU) (3,5 tỷ tấn). Ngoài việc tiêu thụ một lượng lớn tài nguyên, ngành dệt may còn chịu trách nhiệm cho 5% khối lượng chất thải toàn cầu. Tác động tiêu cực đến môi trường xảy ra với cường độ khác nhau ở các giai đoạn khác nhau trong vòng đời sản phẩm dệt may, với vai trò khác nhau của người sản xuất và người tiêu dùng trong việc tạo ra và sử dụng sản phẩm. Tác động trực tiếp, lớn nhất của người tiêu dùng lên môi trường gắn liền với giai đoạn sử dụng và thải bỏ(7).
Do đó, xanh hóa ngành dệt may sẽ giúp giải quyết được nhiều vấn đề về môi trường mà ngành này đang gây ra. Doanh nghiệp của ngành cần áp dụng phương pháp sản xuất xanh, lựa chọn nguyên liệu xanh để tạo ra sản phẩm dệt may bền vững hơn khi người tiêu dùng đang có xu hướng ngày càng quan tâm đến tính bền vững, tính thân thiện với môi trường của sản phẩm. Người tiêu dùng đang ngày càng nhận thức được sự cần thiết và tầm quan trọng của hành vi nhỏ góp phần giải quyết các thách thức lớn toàn cầu về ô nhiễm môi trường và tác động đến đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp đã ý thức được rằng làm được điều này còn giúp cải thiện hình ảnh thương hiệu và mang lại lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đã bắt đầu luật hóa các vấn đề liên quan đến xanh hóa ngành dệt may trong những năm gần đây như một phần của nỗ lực hướng tới phát triển bền vững. Nổi bật nhất là Liên minh châu Âu với các hoạt động cụ thể, thông qua các quy định và chính sách, như Thỏa thuận xanh châu Âu, Kế hoạch hành động kinh tế tuần hoàn, Chiến lược công nghiệp mới cho châu Âu và Chiến lược của Liên minh châu Âu cho ngành dệt may bền vững và tuần hoàn. Do đó, chuyển dịch theo hướng sản xuất xanh là giải pháp tốt nhất hiện nay để tuân thủ các quy định về tính bền vững của sản phẩm dệt may tại các thị trường này.
Doanh nghiệp của ngành dệt may cần áp dụng phương pháp sản xuất xanh, lựa chọn nguyên liệu xanh để tạo ra sản phẩm dệt may bền vững_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn
Ngành dệt may Việt Nam thuộc tốp 4 ngành xuất khẩu chủ lực của quốc gia năm 2023, với kim ngạch xuất khẩu đạt 39,7 tỷ USD (chiếm hơn 11% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước). Hiện nay, ngành dệt may có khoảng 7.000 doanh nghiệp đang hoạt động, bảo đảm việc làm cho trên 3 triệu lao động trực tiếp trong ngành, chưa kể các ngành liên quan, công nghiệp hỗ trợ. Vì vậy, khi chuyển dịch sang sản xuất xanh, ngành dệt may sẽ tạo ra rất nhiều cơ hội việc làm xanh, bền vững cho người lao động, góp phần ổn định đời sống, nâng cao chất lượng làm việc, đóng góp vào công tác an sinh xã hội quốc gia.
Cơ hội chuyển đổi xanh đối với ngành dệt may Việt Nam
Các xu thế trong chuỗi cung ứng dệt may toàn cầu hiện nay đang mở ra cơ hội để thúc đẩy xanh hóa ngành dệt may Việt Nam.
Thứ nhất, việc tham gia các hiệp định thương mại tự do gần đây đã mang lại một số ưu đãi thuế quan dành cho hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam.
Thứ hai, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có môi trường kinh doanh thuận lợi với sự ổn định về hệ thống kinh tế - chính trị. Trong bối cảnh tình hình địa - chính trị thế giới có nhiều bất ổn như hiện nay, việc các hãng thời trang tìm nguồn cung ứng nhiều hơn tại Việt Nam là điều dễ hiểu.
Thứ ba, năng lực sản xuất của doanh nghiệp dệt may Việt Nam với đội ngũ lao động kỹ thuật tốt, đáp ứng được đơn hàng khó, yêu cầu chất lượng cao sẽ là một lợi thế.
Hiện nay, chi phí nhân công rẻ không còn là lợi thế cạnh tranh của dệt may Việt Nam, thay vào đó, trở thành nhà cung ứng bền vững đang và sẽ là yếu tố quan trọng để thu hút khách hàng, nâng cao vị thế và uy tín của doanh nghiệp. Xu hướng sản xuất dệt may xanh sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam đón được đơn hàng ổn định với hiệu quả tốt trong tương lai.
Các nhãn hàng vẫn ưu tiên nhà sản xuất và đối tác sản xuất, kinh doanh có trách nhiệm về mặt xã hội và môi trường. Nhờ hệ thống pháp luật lao động, pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam tương đối hoàn thiện theo chuẩn quốc tế về lao động, việc làm và các vấn đề xã hội, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có lợi thế lớn khi triển khai đánh giá mức độ tuân thủ đạo đức kinh doanh của các nhãn hàng trước khi hợp tác.
Khi nền kinh tế phục hồi, thu nhập và tiêu dùng được cải thiện, người tiêu dùng sẽ quan tâm hơn đến sản phẩm xanh được sản xuất bởi doanh nghiệp có trách nhiệm xã hội và môi trường. Do đó, xu hướng trong trung và dài hạn vẫn sẽ hướng tới sản phẩm xanh và bền vững hơn.
Thách thức trong quá trình xanh hóa ngành dệt may
Mặc dù xanh hóa sản xuất dệt may có thể mang lại cơ hội để ngành dệt may Việt Nam vươn lên một nấc thang mới trong chuỗi giá trị toàn cầu, nhưng doanh nghiệp trong ngành cũng sẽ đối diện với thách thức rất lớn.
Thứ nhất, lựa chọn nguyên liệu xanh, thân thiện với môi trường phục vụ sản xuất đang là mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp dệt may do hạn chế về nguồn cung, cũng như thị hiếu của người tiêu dùng. Mặc dù người tiêu dùng đang có xu hướng ngày càng ủng hộ vật liệu xanh, bền vững hơn, nhưng thực tế cho thấy vật liệu tổng hợp đang chiếm ưu thế do giá rẻ, đáp ứng được yêu cầu đa dạng về thiết kế, mục đích sử dụng và nguồn cung dồi dào. Các loại nguyên liệu từ bông, lanh, gai dầu và đay hiện đang phổ biến nhất trong nhóm nguyên liệu xanh, tuy nhiên theo số liệu của Textile Exchange, các loại xơ thực vật này chỉ chiếm 27% tổng sản lượng xơ toàn cầu (trong đó, bông chiếm 22%), xơ tổng hợp từ bột gỗ chỉ chiếm 6,3%. Trong khi đó, xơ hóa học tổng hợp chiếm tới 65% tổng sản lượng toàn cầu, phổ biến nhất là xơ polyester (54%) và polyamid (5%). Do đó, nguồn cung nguyên liệu và khả năng chi trả của người tiêu dùng cho sản phẩm có nguồn gốc thân thiện với môi trường vẫn là rào cản đáng kể đối với doanh nghiệp dệt may trên thế giới nói chung và dệt may Việt Nam
nói riêng.
Thứ hai, sản phẩm xanh, thân thiện với môi trường vẫn là sản phẩm thuộc phân khúc thị trường ngách với giá cao, khó cạnh tranh về giá với sản phẩm truyền thống hiện hữu, nhất là trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều khó khăn như hiện tại. Do đó, thị trường tiêu thụ hạn chế sẽ là thách thức đối với việc chuyển đổi xanh cho doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
Thứ ba, về mặt chính sách, mặc dù chủ trương phát triển kinh tế xanh đã được quan tâm trong thời gian gần đây, nhưng chính sách cụ thể để xanh hóa ngành dệt may vẫn còn thiếu và chưa triển khai đồng bộ. Chưa có quy định rõ ràng về phát triển bền vững hay phát triển kinh tế xanh áp dụng cho ngành dệt may. Do đó, doanh nghiệp trong ngành vẫn chưa có được hành lang pháp lý rõ ràng, chưa có khuyến khích chuyển dịch xanh hóa một cách hiệu lực. Hiện nay, hệ thống chiến lược với nhiều mục tiêu, định hướng và hành động trong Chiến lược và Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh chưa được được lồng ghép triệt để hoặc chi tiết hóa, đặc biệt là ở nội dung chuyên ngành (ví dụ, quy hoạch và phát triển khu công nghiệp xanh cho ngành sợi).
Thứ tư, hệ thống tài chính xanh còn non trẻ khiến dự án dệt may xanh gặp nhiều khó khăn trong việc huy động nguồn tài chính, bao gồm cả huy động vốn hoặc tiếp cận nguồn tín dụng ưu đãi. Điều này xuất phát từ khung pháp lý tài chính xanh chưa hoàn thiện (ví dụ, trường hợp thị trường trái phiếu xanh) và công cụ huy động tài chính xanh mới chưa được triển khai (ví dụ, trường hợp thị trường giao dịch tín chỉ các-bon). Ngoài ra, doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần sự hướng dẫn triển khai đồng bộ, dự án thí điểm và hỗ trợ nâng cao năng lực huy động vốn, đặc biệt là với sản phẩm và cơ chế tài chính mới còn xa lạ đối với thị trường Việt Nam. Đặc thù của sản xuất dệt may xanh là hướng tới sự bền vững, tăng trưởng ổn định trong dài hạn, rất khó để thấy được hiệu quả ngay trong những năm đầu, do đó công cụ tín dụng xanh cần được xây dựng phù hợp với đầu tư sản xuất xanh trong ngành dệt may.
Cuối cùng là mức độ nhận thức và sự tham gia của người dân vào các vấn đề tăng trưởng xanh và phát triển bền vững vẫn chưa cao. Điều này hạn chế tiềm năng thay đổi hành vi và đổi mới xã hội có thể hỗ trợ tăng cường xanh hóa ngành dệt may và phát thải ít các-bon.
Một số khuyến nghị
Về chính sách vĩ mô
Với đặc điểm ngành dệt may kinh doanh hoàn toàn cạnh tranh theo thị trường quốc tế, các quyết định, lộ trình xanh hóa mang tính áp đặt sẽ ít có hiệu quả, mà phải gắn chặt với chuyển biến của toàn bộ nền kinh tế thế giới, trước hết là tại các nước phát triển, là thị trường tiêu thụ chính của hàng hóa dệt may Việt Nam. Đi nhanh hơn thị trường cũng có thể có thiệt hại về tài chính, khó khăn ngắn hạn khi năng lực cung của hàng hóa dệt may xanh, bền vững lớn hơn cầu, nhưng đi chậm hơn thì chắc chắn không có vị trí trong chuỗi cung ứng mới, dẫn tới khủng hoảng toàn diện ngành dệt may.
Do đó, việc thể chế hóa tiêu chuẩn xanh trong ngành dệt may với lộ trình phát triển và mục tiêu cụ thể, phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế xanh trên thế giới là cần thiết. Lộ trình phát triển dệt may xanh cần nêu rõ các mục tiêu, quy định cụ thể cho từng giai đoạn ngắn, gắn với vai trò của các bên liên quan, đồng thời gắn với các cơ chế tài chính để thực hiện mục tiêu, như cơ chế đầu tư theo phương thức đối tác công - tư (PPP), cơ chế tài chính xanh... Quy định của Chính phủ là điều kiện sàn để đầu tư mới, đầu tư chiều sâu đi đúng định hướng của nền kinh tế xanh, tránh lãng phí của cải vật chất. Tuy nhiên, các mục tiêu này phải rất linh hoạt, liên tục có khả năng điều chỉnh theo diễn biến của thị trường chứ không thể giữ cố định như kế hoạch 5 năm, hay các chiến lược, quy hoạch 10 năm hiện có.
Chính sách hỗ trợ, khuyến khích, điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp theo hướng chuyển đổi xanh và áp dụng sáng kiến xanh thông qua các công cụ về tín dụng, thuế, tiếp cận đất đai cũng cần được ban hành. Đặc biệt là, chính sách tài chính có tác dụng bổ sung dòng tiền và lợi thế chi phí cho doanh nghiệp triển khai sản xuất xanh, như giảm thuế VAT, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm thuế nhập khẩu các nguồn nguyên liệu tham gia tạo sản phẩm xanh ở trong nước, có nguồn kinh phí hỗ trợ đào tạo nhân lực xanh tại doanh nghiệp từ quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Việc đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật và quản lý kinh tế xanh cần được đưa vào chương trình đào tạo từ bậc cao đẳng trở lên để sẵn sàng phục vụ cho quá trình chuyển đổi xanh.
Về chiến lược phát triển
Đánh giá và phân tích: Các bộ quản lý ngành cần tiến hành đánh giá kỹ lưỡng về tình trạng hiện tại của ngành dệt may, bao gồm việc sử dụng tài nguyên, phát sinh chất thải và cấu trúc chuỗi cung ứng.
Xác định các bên liên quan chính và thu hút họ tham gia vào quá trình chuyển đổi xanh, bao gồm nhà cung cấp, nhà sản xuất, nhà bán lẻ, người tiêu dùng và cơ sở quản lý chất thải.
Đặt mục tiêu rõ ràng: Từ kết quả đánh giá, cần xác định mục tiêu rõ ràng và có thể đo lường được cho quá trình chuyển đổi. Chẳng hạn như, giảm tiêu thụ tài nguyên, giảm thiểu phát sinh chất thải và tăng cường sử dụng vật liệu tái chế.
Các mốc thời gian thực tế để đạt được các mục tiêu này cần được đặt ra, bao gồm cả mục tiêu ngắn hạn và dài hạn. Mục tiêu linh hoạt, cơ chế điều chỉnh dễ dàng, có khuyến khích tài chính cho doanh nghiệp thực hiện tốt lộ trình chuyển đổi.
Về công nghệ và đầu tư
Cần có nghiên cứu mang tính dẫn đường, hướng dẫn và chuyển giao cho doanh nghiệp, cùng với kênh chuyển giao của khách hàng trong chuỗi cung ứng, bảo đảm việc lựa chọn hướng đi cho chuyển đổi sản xuất xanh về phương diện công nghệ không lãng phí.
Trước hết, cần tập trung vào nghiên cứu và ứng dụng công nghệ xanh, như năng lượng tái tạo, sử dụng hiệu quả năng lượng và nước, quản lý tài nguyên và xử lý chất thải, nghiên cứu áp dụng công nghệ sử dụng lại phát thải và rác thải, công nghệ tuần hoàn. Điều này có thể giúp giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường và tạo ra nguồn tài nguyên bền vững. Bên cạnh đó, cần tăng cường hợp tác với đối tác, nhà cung cấp máy móc thiết bị để học hỏi, chuyển giao công nghệ tiên tiến trong ngành dệt may.
Về tài chính
Nghiên cứu, phát triển các lựa chọn tài chính xanh, như trái phiếu xanh, khoản tín dụng cho sản xuất xanh và đầu tư tác động (impact investing)(8). Các công cụ tài chính này thu hút nhà đầu tư đang tìm cách hỗ trợ các sáng kiến thân thiện với môi trường và có thể cung cấp vốn cần thiết cho dự án nhà máy dệt may xanh.
Cộng tác với doanh nghiệp, nhà đầu tư và tổ chức khác để tập hợp nguồn lực và chia sẻ gánh nặng tài chính của các sáng kiến xanh. Liên doanh, tập đoàn và quan hệ đối tác có thể tạo ra lợi thế kinh tế theo quy mô và phân tán hóa rủi ro.
Về nhân lực
Đầu tiên, cần xác định khoảng cách về kỹ năng của người lao động trong doanh nghiệp có thể cản trở quá trình chuyển đổi sang sản xuất xanh. Từ đó, xây dựng chương trình đào tạo để nâng cao kiến thức cho lực lượng lao động về tiêu chí của dệt may xanh, thực hành bền vững và công nghệ mới.
Hợp tác với trường đại học, cơ sở đào tạo để phát triển chương trình đào tạo lực lượng lao động nguồn cho sản xuất xanh, bao gồm cả lao động trực tiếp và lực lượng quản lý.
Xây dựng mạng lưới liên ngành/liên doanh nghiệp để cùng chia sẻ kiến thức, kỹ năng, thực hành xanh hóa sản xuất.
Về thị trường
Đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông về chiến lược, chương trình cũng như sản phẩm xanh và ý nghĩa của dệt may xanh mà doanh nghiệp đang có để thu hút sự quan tâm của cộng đồng. Từ đó, góp phần thay đổi nhận thức, thói quen của người tiêu dùng hướng đến sản phẩm xanh, bền vững.
Sử dụng chiến dịch tiếp thị và kênh truyền thông phù hợp để làm nổi bật các khía cạnh tuần hoàn của sản phẩm, đồng thời tạo cơ hội cho người tiêu dùng được tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm xanh, như đóng góp sáng kiến về nguyên liệu xanh, đề xuất quy trình sản xuất xanh, quy trình sản xuất tuần hoàn...
Xây dựng văn hóa tiêu dùng sản phẩm xanh, bền vững
Dịch chuyển sang sử dụng sản phẩm dệt may xanh với số lượng ít đi, giá mỗi đơn vị sản phẩm cao lên, mẫu mã chưa đa dạng như hàng hóa dệt may thời trang truyền thống, thời trang nhanh hiện nay là một quá trình điều chỉnh hành vi tiêu dùng đã hình thành nhiều năm của các nền kinh tế trên thế giới, tiêu thụ quá mức nhu cầu dẫn đến tạo áp lực về chất thải đang là vấn đề toàn cầu cấp bách nhất. Chính vì vậy, bên cạnh nỗ lực về kinh tế thì cần rất nhiều nỗ lực xây dựng văn hóa tiêu dùng mới, văn hóa tiêu dùng sản phẩm xanh. Sự thấu hiểu, chấp nhận sử dụng ít đi, nhưng là sản phẩm xanh với giá cả cao hơn từ người tiêu dùng là nhân tố quyết định thành công của quá trình xanh hóa ngành dệt may.
-------------------
(1) Nguyễn Tuấn Phong: “Phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025”, Cổng thông tin điện tử Viện Chiến lược và chính sách tài chính, ngày 18-11 2021, https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-tin?dDocName=MOFUCM221681
(2) Tổng cục Thống kê, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Hiện trạng rừng Việt Nam qua các năm
(3) Iqair, Những quốc gia và khu vực ô nhiễm nhất trên thế giới, https://www.iqair.com/vi/world-most-polluted-countries
(4) Niên giám Thống kê, phân loại ngành kinh tế xanh bởi nhóm nghiên cứu, dựa theo Hướng dẫn thống kê các lĩnh vực xanh theo văn bản số 9050/NHNN-TD
(5) Tổng cục Thống kê: Thông cáo báo chí tình hình lao động việc làm quý IV và năm 2020
(6) Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Báo cáo triển khai kết luận phiên họp toàn thể lần thứ nhất ban chỉ đạo quốc gia về tăng trưởng xanh, 2023
(7) Xem: Lê Tiến Trường (chủ biên): Xu hướng dịch chuyển tới kinh tế tuần hoàn và các ảnh hưởng đến ngành dệt may Việt Nam, Nxb. Bách khoa Hà Nội, 2023
(8) Đầu tư tác động là việc đầu tư của doanh nghiệp, tổ chức, quỹ với kỳ vọng tạo ra tác động về xã hội và môi trường song song với thu nhập tài chính.