Hỏi:
Bộ Tài chính trả lời ý kiến của Bộ Công Thương về Điều 82 Luật PPP (cơ chế chia sẻ phần
tăng, giảm doanh thu) không xác định được thời gian Kiểm toán Nhà nước có
kết quả kiểm toán và ảnh hưởng đến dòng tiền trả vốn vay.
03/09/2025
Trả lời:
Thực hiện thông báo số 08-TB/BCĐTW ngày 08/8/2025 của Ban Chỉ đạo
Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật về kết luận của đồng chí Tổng Bí
thư Tô Lâm, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương tại Phiên họp chuyên đề của Ban
Chỉ đạo, trả lời phản ánh của Bộ Công Thương về cơ chế chia sẻ doanh thu quy
định tại Điều 82 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư số
64/2020/QH14 (sau đây gọi là Luật PPP), Bộ Tài chính có ý kiến như sau:
1. Ý kiến của Bộ Công Thương: Điều 82 Luật PPP (cơ chế chia sẻ phần
tăng, giảm doanh thu) không xác định được thời gian Kiểm toán Nhà nước có
kết quả kiểm toán và ảnh hưởng đến dòng tiền trả vốn vay.
2. Ý kiến của Bộ Tài chính:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật PPP (được sửa đổi, bổ sung tại
điểm b khoản 30 Điều 2 Luật số 90/2025/QH15), điều kiện dự án PPP được áp
dụng cơ chế chia sẻ phần giảm doanh thu khi đã được Kiểm toán Nhà nước kiểm
toán phần giảm doanh thu. Đồng thời, Điều 85 Luật PPP quy định Kiểm toán
nhà nước kiểm toán trong hoạt động đầu tư PPP gồm kiểm toán khi thực hiện cơ
chế chia sẻ phần tăng, giảm doanh thu theo quy định tại Điều 82 của Luật này.
Theo quy định Điều 34 Luật Kiểm toán nhà nước số 81/2015/QH13 (được
sửa đổi, bổ sung tại Luật số 55/2019/QH14):
“1. Thời hạn của cuộc kiểm toán được tính từ ngày công bố quyết định
kiểm toán đến khi kết thúc việc kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán.
2. Thời hạn của một cuộc kiểm toán không quá 60 ngày, trừ trường hợp
quy định tại khoản 3 Điều này. Trường hợp phức tạp, cần thiết kéo dài thời hạn
kiểm toán thì Tổng Kiểm toán nhà nước quyết định gia hạn một lần, thời gian
gia hạn không quá 30 ngày.
3. Đối với cuộc kiểm toán để đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả
trong quản lý và sử dụng tài chính công, tài sản công có quy mô toàn quốc,
Tổng Kiểm toán nhà nước quyết định cụ thể về thời hạn kiểm toán”.
Ngoài ra, Điều 31 Luật Kiểm toán nhà nước quy định nội dung quyết định
kiểm toán bao gồm thời hạn kiểm toán.
Do vậy, thời hạn Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán doanh thu của
dự án PPP khi áp dụng cơ chế chia sẻ phần giảm doanh thu thực hiện theo quy
định tại Luật Kiểm toán nhà nước.
Trên đây là ý kiến của Bộ Tài chính gửi Quý Bộ nghiên cứu./
Văn bản quy phạm, điều luật liên quan:
Câu hỏi khác
Hỏi:
Công ty cổ phần Thiết bị Xăng dầu
Petrolimex hoạt động theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty cổ phần,
mã số 0100108102 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội cấp: Đăng ký lần đầu ngày
17/01/2002; Đăng ký thay đổi lần thứ 13 ngày 10/05/2023; Mã số thuế:
0100108102;
Công ty tôi hiện đang là chủ đầu tư
của một dự án thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư. Dự án đã được xây dựng,
hoàn thành nghiệm thu và đi vào hoạt động. Hiện tại, chúng tôi có mong muốn
được điều chỉnh bổ sung mục tiêu, quy mô, tổng vốn đầu tư trên phần đất thuộc
dự án đầu tư này theo Điều 41 Luật Đầu tư số 61/2020/QH14. Tuy nhiên, doanh nghiệp chưa hiểu rõ
một quy định khác của Luật Đầu tư số 61/2020/QH14 như sau: Khoản 1 Điều 42 Luật Đầu tư số
61/2020/QH14 quy định: “Đối với dự án đầu
tư thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư, việc chấp thuận chủ trương đầu tư
phải được thực hiện trước khi nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư”. Cho tôi hỏi, liệu có phải chỉ dự án
đầu tư chưa được thực hiện xong (chưa xây dựng hoàn thành và đi vào hoạt động)
mới có thể thực hiện thủ tục điều chỉnh chủ trương đầu tư? Đối với dự án đã xây
dựng, hoàn thành và đi vào hoạt động, chủ đầu tư có thể thực hiện thủ tục điều
chỉnh chủ trương đầu tư theo Điều 41 Luật Đầu tư số 61/2020/QH14 được hay
không?
Hỏi:
Trong quá trình triển khai các thủ tục cho dự án đầu tư khẩn cấp sử dụng vốn nhà nước không thuộc vốn đầu tư công, chúng tôi thấy bất cập như sau:
1. Ngày 22/5/2025 Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 27/2025/TT-BTC, trong đó quy định việc quyết toán vốn đầu tư đối với các dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước ngoài vốn đầu tư công áp dụng quy định tại Nghị định số 99/2021/NĐ-CP.
Theo đó tại khoản 2 Điều 17 Nghị định 99/2021/NĐ-CP có quy định thành phần hồ sơ tạm ứng đối với dự án đầu tư công khẩn cấp bao gồm:
..."- Quyết định phê duyệt dự án đầu tư hoặc quyết định phê duyệt báo cáo kinh tế kỹ thuật (đối với dự án chỉ lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật) của cấp có thẩm quyền, các quyết định điều chỉnh dự án (nếu có);"
2. Nội dung trên nếu áp dụng cho dự án khẩn cấp sử dụng vốn đầu tư công thì phù hợp vì có quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 45 Luật đầu tư công 2024. Tuy nhiên, đối với các dự án không sử dụng vốn đầu tư công thì lại không có quy định cụ thể về việc phê duyệt dự án đầu tư, báo cáo kinh tế - kỹ thuật và quyết định đầu tư dự án. Trình tự thủ tục các dự án thuộc loại này đang thực hiện theo Khoản 48 Điều 1 Luật Xây dựng sửa đổi 2020; công tác quản lý đầu tư xây dựng công trình khẩn cấp thực hiện theo Điều 69 Nghị định 175/2024 thì chỉ đề cập tới Lệnh xây dựng công trình khẩn cấp, không đề cập cụ thể đến việc Quyết định đầu tư (phê duyệt dự án đầu tư hoặc Báo cáo KT-KT). Như vậy về thành phần hồ sơ giữa quy định về thanh quyết toán và hướng dẫn về trình tự thủ tục đầu tư xây dựng tại Luật xây dựng, Nghị định 175 là chưa thống nhất, dẫn tới vướng mắc khi quyết toán dự án.
Vì vậy, tôi đề nghị Bộ Tài chính trả lời, hướng dẫn rõ 2 nội dung sau:
1) Đối với công trình khẩn cấp sử dụng vốn nhà nước ngoài vốn đầu tư công thì: Lệnh xây dựng công trình khẩn cấp của cấp có thẩm quyền có được hiểu là thay thế Quyết định phê duyệt dự án hoặc Báo cáo KTKT được đề cập tại Điều 17 Nghị định 99/2021 không?
Nếu không thay thế thì việc trình, phê duyệt dự án đầu tư/ Báo cáo kinh tế kỹ thuật sẽ thực hiện như thế nào? trong khi việc xây dựng công trình cần phải thực hiện ngay, song song với việc hoàn thiện các thủ tục; hồ sơ thiết kế (bản chất là hồ sơ hoàn công) hoàn thành sau khi đã kết thúc xây dựng công trình.
2) Bộ có phương hướng điều chỉnh Thông tư 27/2025 hoặc hướng dẫn cụ thể để tháo gỡ các vướng mắc trên không? Vì tôi thấy Thông tư đang dẫn tới tình trạng các công chức áp dụng máy móc là: yêu cầu kiểm soát thành phần hồ sơ giống nhau cho các loại công trình, dự án có thủ tục khác nhau là không phù hợp.
Rất mong Bộ Tài chính có ý kiến trả lời sớm để tháo gỡ vướng mắc cho chúng tôi
Xin trân trọng cảm ơn!
Hỏi:
khoản 1 Điều 6 Nghị định số 125/2025/NĐ-CP ngày 11/6/2025 của Chính phủ quy định: “1. Thẩm quyền phê duyệt quyết toán chi phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại khoản 3 Điều 32 Nghị định số 99/2021/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2021 về quản lý, thanh toán, quyết toán dự án sử dụng vốn đầu tư công sau khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương 02 cấp được thực hiện như sau:
Đối với phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của dự án đã được Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt trước khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương 02 cấp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân quản lý đơn vị, tổ chức được giao thực hiện nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư (sau khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương 02 cấp) phê duyệt quyết toán chi phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư hoàn thành”.
Như vậy, trường hơp Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt quyết toán chi phí bồi thường, hỗ trơ tái định cư hoàn thành thì cơ quan chủ trì thẩm tra quyết toán chi phí này là cơ quan nào
Hỏi:
Đơn vị tôi có 100% vốn Nhà nước, đang
đầu tư xây dựng 1 công trình cải tạo (chỉ lập báo cáo kinh tế kỹ thuật - Người
quyết định đầu tư không yêu cầu lập báo cáo nghiên cứu khả thi) có tổng mức đầu
tư là 20,1 tỷ đồng và không có ảnh ảnh hưởng đến an toàn chịu lực công trình.
Cơ cấu chi phí công trình như sau: - Chi phí đền bù: 0 tỷ đồng; - Chi phí thiết bị: 14,5 tỷ đồng;- Chi phí xây dựng: 1,5 tỷ đồng; - Chi phí quản lý dự án: 0,3 tỷ đồng;
- Chi phí tư vấn: 0,5 tỷ đồng; - Chi phí khác: 1,5 tỷ đồng; - Chi phí dự phòng: 1,8 tỷ đồng. Tôi xin hỏi, với cơ cấu chi phí trong
tổng mức đầu tư như trên, đơn vị tôi lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật đầu tư xây
dựng cho công trình thì có đúng với tinh thần tại Khoản 2 Điều 12 Nghị định số
35/2023/NĐ-CP không?
Hỏi:
Đơn vị chúng tôi là 1 đơn vị Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng của 1 cấp huyện. Là đơn vị sự nghiệp công lập nhóm II, tự đảm bảo chi phí hoạt động thường xuyên theo Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/06/2021 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập. Ban Quản lý dự án được giao thực hiện nhiệm vụ quản lý dự án đối với các dự án sử dụng vốn đầu tư công, đồng thời thực hiện các hoạt động tư vấn đầu tư xây dựng đối với các chủ đầu tư khác theo hợp đồng và quy định của pháp luật hiện hành (nếu có).Điều 10 của Nghị định 99/2021/NĐ-CP ngày 11/11/2021 của Chính phủ quy định về quản lý thanh toán, quyết toán, dự án đầu tư công;Căn cứ khoản 3, khoản 5 Điều 10 của Nghị định 99/2021/NĐ-CP ngày 11/11/2021 quy định về quản lý, thanh toán, quyết toán các dự án đầu tư công; Căn cứ khoản 2, điều 5 và điều 7 tại Thông tư 70/2024/TT-BTC ngày 1/10/2024 của Bộ Tài Chính quy định về quản lý, sử dụng các các khoản thu từ hoạt động tư vấn, quản lý dự án của các chủ đầu tư, ban quản lý dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước;Căn cứ Điều 7, Thông tư 70/2024/TT-BTC quy định về cơ sở lập dự toán thu, chi; Điều 30 Nghị định số 10/2021/NĐ-CP ngày 09/12/2021 của Chính phủ về quản lý chi phí đầu tư xây dựng Như vậy, việc trích chi phí quản lý dự án hàng năm nếu chỉ tính trên khối lượng xây lắp hoàn thành đã nghiệm thu, thì có phù hợp với công việc khối lượng quản lý dự án xuyên suốt, bắt đầu từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư, triển khai thực hiện cho đến khi hoàn tất quyết toán bàn giao đưa vào sử dụng, theo Điều 30 Nghị định 10/2021/NĐ-CP ngày 9/12/2021 của Chính phủ về quy định quản lý chi phí đầu tư xây dựng. Trên cơ sở đó, đơn vị kính đề nghị Bộ Tài chính xem xét, hướng dẫn cụ thể về nguyên tắc trích chi phí quản lý dự án trong quá trình triển khai thực hiện dự án. Cụ thể, việc trích chi quản lý dự án có phải căn cứ trên khối lượng xây lắp hoàn thành đã nghiệm thu hay có thể thực hiện trích theo kế hoạch thực hiện (tiến độ, nhiệm vụ được giao) đã được phê duyệt trong dự toán chi phí hàng năm.
Hỏi:
Tại Khoản 4 Điều 8 Thông tư số
09/2016/TT-BTC ngày 18/01/2016; sửa đổi, bổ sung tại Điểm b Khoản 4 Điều 1
Thông tư 64/2018/TT-BTC ngày 30/07/2018quy
định:“Trường hợp nhà thầu
không thực hiện quyết toán hợp đồng theo quy định hoặc cá nhân, tổ chức không
thực hiện các nội dung công việc để hoàn thành quyết toán dự án, chủ đầu tư có
văn bản yêu cầu nhà thầu, cá nhân, tổ chức thực hiện quyết toán hợp đồng hoặc
bổ sung hoàn thiện hồ sơ, tài liệu quyết toán hợp đồng hoặc hoàn thành các nội
dung công việc để quyết toán dự án kèm theo thời hạn thực hiện (theo Mẫu số
14/QTDA). Sau khi chủ đầu tư đã gửi văn bản lần thứ 03 (mỗi văn bản cách nhau
10 ngày) đến nhà thầu, cá nhân, tổ chức, nhưng nhà thầu, cá nhân, tổ chức vẫn
không thực hiện các nội dung theo yêu cầu; chủ đầu tư được căn cứ những hồ sơ
thực tế đã thực hiện để lập hồ sơ quyết toán (không cần bao gồm quyết toán
A-B), thuê kiểm toán độc lập thực hiện kiểm toán (nếu có), xác định giá trị đề
nghị quyết toán trình cấp có thẩm quyền phê duyệt và ghi rõ nội dung về việc
nhà thầu, cá nhân, tổ chức không hợp tác để quyết toán dự án hoặc thực hiện các
nội dung công việc để hoàn thành quyết toán dự án trong Tờ trình đề nghị phê duyệt
quyết toán của chủ đầu tư. Nhà thầu, cá nhân, tổ chức tham gia thực hiện dự án
chịu hoàn toàn các tổn thất, thiệt hại (nếu có) và có trách nhiệm chấp hành
quyết định phê duyệt quyết toán dự án của cấp có thẩm quyền”. Tuy nhiên,haithông tư trên hết hiệu lực, hiện
chưa có thông tư thay thế hướng dẫn về trường hợp nhà thầu không phối hợp quyết
toán. Tôi xin hỏi,trường hợp nhà thầu không phối hợp
thì có áp dụng theo hướng dẫn này không?Phương án xử
lý trường hợp này được áp dụng theo hướng dẫn nghị định,thông tư nào?